“Thuyết
âm mưu” về phiến quân IS
Tiến sỹ Nguyễn Phương Mai.
Amsterdam University of Applied
Sciences
Tổ chức IS
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của tác
giả, hiện đang giảng dạy môn Trung Đông Học tại Đại học Khoa học Ứng dụng
Amsterdam, Hà Lan và là tác giả cuốn “Con Đường Hồi Giáo” viết về 12 quốc gia
Trung Đông thời hậu Mùa Xuân Ả Rập.
Với sự man rợ không cần giấu
diếm, hẳn nhiều người cho rằng IS (Islamic State) đang tự cô lập mình bằng
muôn vàn kẻ thù.
Trong cuộc trò chuyện gần đây
với những người bạn Hồi giáo, tôi nhận thấy các cuộc tranh luận của họ không
bao giờ thiếu món ăn đặc trưng của những đất nước vùng Trung Đông: Thuyết
âm mưu.
-Tiền của IS ở đâu ra?
Thuyết âm mưu: “Israel và bè lũ Do Thái luôn tìm cách lũng đoạn Trung Đông”; “Mỹ bí
mật tài trợ cho IS để tạo cớ cho sự có mặt quân sự tại khu vực”.
Trong thực tế, IS được tiếp năng lượng chủ
yếu từ hai nguồn tài chính sau.
Thứ nhất là dầu. IS được ví
như Taliban với những giếng dầu trong tay. Mỗi ngày IS bán được tới 30.000
thùng dầu với giá rẻ hơn giá thị trường, dao động quanh 25-65 đô la/ thùng. Dầu
được vận chuyển ra ngoài địa hạt của IS bằng các trung gian mối lái người
Kurd, bán lại cho các khách hàng ở biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, và cho chính bản thân
chính quyền Assad của Syria. Syria nhận dầu, và bán vũ khí cho IS.
Sự oái ăm này thực ra không hề
lạ lẫm trong những màn trình diễn chính trị và xung đột ở Trung Đông. Nền
kinh tế kiểu chiến tranh đã trở thành câu chuyện tính toán ăn chia thường
ngày của các nhà độc tài chính trị nơi đây. Ngoài mặt, IS chính thức là một tổ
chức thánh chiến dòng Hồi Sunni với mục tiêu đánh đổ chính quyền dòng Hồi
Shia của Syria.
Tuy nhiên, cả hai bên đều hiểu
rằng, họ có thể một tay dí súng vào đầu nhau, dưới gầm bàn, tay kia hoàn toàn
có thể tạm thời ngoắc ngoặc với nhau trong những thương vụ làm ăn cả hai bên
đều có lợi. Các nhà quan sát đã gọi mối quan hệ này là “frienemy”, một dạng quan hệ vừa đối đầu vừa đối thoại giữa hai kẻ
vừa là bạn vừa là thù. Số tiền bán dầu chảy vào túi IS mỗi ngày lên đến 2-3
triệu đôla.
Lưu ý rằng Al-Qaeda chỉ cần 30
triệu đôla mỗi năm để vận hành bộ máy khủng bố, và chỉ cần 1 triệu đôla để
chi cho cuộc tấn công Tháp Đôi.
Nguồn tài chính thứ hai xuất
phát từ vùng Vịnh. IS đã luôn được sự ủng hộ từ khi còn trong nôi của những tổ
chức tôn giáo và cá nhân tại Saudi, Qatar và Kuwait.
Lưu ý rằng sự ủng hộ này không
hẳn đã trực tiếp đến từ chính quyền các quốc gia vùng Vịnh theo dòng Sunni mà
chủ yếu từ những tổ chức cá nhân riêng lẻ. Nguồn tiền cho IS chảy ra từ túi
những kẻ cách đây vài năm đã chót lạc quan cho rằng chính quyền Hồi Shia của
Syria chắc chắn sẽ nhanh chóng sụp đổ. Khi Syria sụp đổ, một tổ chức Hồi
Sunni như IS sẽ đóng vai trò trải đường cho các diễn biến chính trị có lợi
cho sự ảnh hưởng quyền lực của Hồi giáo Sunni.
Tại sao các tổ chức tôn giáo
và cá nhân này lại không ủng hộ các nhánh quân nổi dậy trung dung của Syria
mà lại đổ tiền vào một tổ chức cực đoan như IS? Nguyên nhân thứ nhất là do họ
không tin vào phương Tây, nhất là khi phương Tây dù lên tiếng ủng hộ các
nhánh quân trung dung nhưng lại không chịu đổ tiền vào trang bị vũ khí.
Nguyên nhân thứ hai sâu xa
hơn, sẽ được bàn đến trong phần sau.
-IS là sản phẩm của ai?
Thuyết âm mưu: “Israel và bè lũ Do Thái luôn tìm cách lũng đoạn Trung Đông”; “IS là
đứa con hoang của Mỹ, vô thừa nhận, và bị làm biến dạng một cách cố ý để
tránh tội lỗi, hệt như Taliban với xuất xứ từ những chiến binh thánh chiến mà
Mỹ chống lưng để chống lại cuộc xâm lược của Liên Xô tại Afghanistan”
Trong thực tế, chúng ta chỉ có thể hiểu về
IS nếu đi ngược lại lịch sử chừng 100 năm, khi nhà Saud – khởi đầu chỉ là chủ
một bộ lạc nhỏ ở vùng sa mạc Nadj – đến đầu thế kỷ thứ 19 đã bắt tay với một
nhánh Hồi giáo khá cực đoan là Wahhabi dần dần đánh chiếm và làm chủ gần như
toàn bộ vùng bán đảo Ả Rập, bao gồm cả thánh địa Mecca và Medina.
Cam kết của nhà Saud và
Wahhabi có thể được coi là một trong những cuộc hôn nhân thực dụng nhất giữa
quyền lực chính trị và tôn giáo mà trong đó nhà Saud sẽ mang danh lãnh đạo còn
giáo lý Hồi dòng Wahhabism sẽ là kim chỉ nam của vương quốc. Không ai có thể
ngờ rằng mối liên minh này đã tạo ra một đất nước bị bóp nghẹt trong bàn tay
quyền lực của chính mình.
Hơn 20 năm qua, 95% trong tổng
số hơn 1000 khu kiến trúc cổ của Saudi đã bị tàn phá, hầu hết là các thánh đường
Hồi giáo và di tích nơi sinh sống của thiên sứ Muhammad.
Wahhabi cho rằng bất kỳ một kiến
trúc lịch sử nào cũng có thể trở thành những nơi thờ cúng linh tượng, và vì
chỉ có Thượng Đế mới đáng để tôn thờ, nếu ngôi mộ của chính Muhhamad trở
thành nơi tín đồ cúng bái thì cũng sẽ bị san phẳng. Ngôi nhà của vợ ông ở
Mecca bị xây trùm lên bằng một hàng nhà xí công cộng.
Những tàn tích cuối cùng của một
nền văn minh đa sắc màu cũng như những bằng chứng cuối cùng của một nền văn
hóa Hồi giáo cổ gần như cố tình bị triệt tiêu và xóa sổ, đặt vào tay những thầy
tu Wahhabi quyền năng tối thượng trong việc viết lại lịch sử tôn giáo và diễn
giải triết lý Hồi giáo theo lý lẽ của riêng mình.
Bước vào thế kỷ 21, Saudi
Arabia là một vương quốc dầu lửa giàu có nhưng mang trong mình một khối nội tạng
khổng lồ vay mượn của giáo lý cực đoan Wahhabi, biết là di hại mà không thể vứt
bỏ vì liên minh quyền lực với các thầy tu tôn giáo đã trở thành xương tủy của
cơ thể chứ không còn là những bộ phận cấy tạo.
Nhà vua Saudi dù nổi tiếng là
người có tư tưởng cải cách nhưng không thể ngăn cản được một bộ phận dân
chúng đã ngấm chất máu cực đoan của dòng giáo lý nổi tiếng tàn khốc và bạo lực
này.
Chính quyền Saudi dù là đồng
minh thân cận của Mỹ, nhưng không thể ngăn cản được tinh thần Wahhabi được
nuôi nấng từ khi còn trong nôi. Với đồng tiền dầu lửa, IS là một trong những
sản phẩm vượt biên giới, trực tiếp hoặc gián tiếp, của cả một hệ thống giáo
lý cực đoan dùng làm công cụ cho chính trị và quyền lực, di căn đến từng tế
bào mà không thể cắt bỏ vì “công cụ” dính chặt đã trở thành một phần không thể
tách rời của cơ thể.
Phiến quân Hồi giáo đã chiếm
được nhiều khí tài quân sự hiện đại do quân đội Iraq bỏ lại.
-IS chỉ bó hẹp ở Trung Đông?
Thuyết âm mưu: “Israel và bè lũ Do Thái luôn tìm cách lũng đoạn Trung Đông và cả thế
giới nếu cần”; “IS là vũ khí kiểu mới của Mỹ, được Mỹ dùng làm con mồi để có
thể can thiệp quân sự vào bất kỳ nơi nào trên thế giới, chỉ cần lấy cớ là mạng
lưới của IS lớn mạnh và gây xung đột”.
Trong thực tế, IS hoàn toàn có khả năng bị
dập tắt, dù khả năng này là rất nhỏ vì nhiều lý do, trong đó có lý do IS mang
dáng dấp của một nhà nước chứ không phải chỉ là một tổ chức khủng bố .
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại
là trong bất kỳ viễn cảnh nào, IS lớn mạnh, bị triệt tiêu hay chỉ còn ngoi
ngóp thở, thì “tư tưởng IS” đã thành công rực rỡ trong việc gửi đi khắp toàn
cầu một thông điệp rằng sự thống nhất của thế giới Hồi giáo là điều hoàn toàn
có thể, rằng lý tưởng xây dựng một nhà nước Hồi giáo “hoàn toàn thanh tẩy” là
điều có thể.
Và thông điệp này không rơi
tõm vào khoảng không. Chúng được đón nhận bởi một hệ thống rada đã được cài cắm,
chăm bón, phát triển ở khắp năm châu bốn biển từ nhiều năm trước. Chúng ta lại
quay trở về đối mặt với một người quen: Wahhabism từ Saudi.
Tiền từ túi những cá nhân và tổ
chức cực đoan của Saudi từ hàng chục năm qua đã lan tỏa ra toàn thế giới, mua
chuộc các lãnh đạo tôn giáo, trả lương cho các thầy tu, cung cấp sách vở, đổi
thay giáo lý, xây dựng thánh đường, trợ cấp tiền cho thanh niên của hàng trăm
đất nước sang vùng Vịnh học tập, sau đó trở về quê hương, đem theo lý tưởng
Wahhabi, thay máu niềm tin và cực đoan hóa cách sống của những người dân địa
phương.
Các quan chức của Saudi cho biết
trên toàn thế giới có 1500 nhà thờ Hồi giáo, 202 trường ĐH, 210 trung tâm tôn
giáo được tài trợ bởi các nguồn tiền từ Saudi. Trong số này có cả Việt Nam, một
số thánh đường lớn mới xây với tiền tài trợ từ Saudi, chưa kể nguồn tài trợ từ
Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập. Nhiều thanh niên Hồi Việt Nam sau khi đi học đã và
đang trở về làm công tác truyền giảng giáo lý.
Trong một buổi thảo luận về Hồi
giáo hồi tháng 3 năm nay tại Việt Nam, tôi đã sững sờ khi khách mời của
chương trình, một thanh niên gốc Chàm được gửi đi học tại Saudi trở về làm thầy
giảng đạo, đã rất mạnh mẽ tuyên bố và bảo vệ một quan điểm khá cực đoan “phụ
nữ kém đàn ông một bậc”. Đây là một câu trích trong Quran (2:228) và chỉ những
kẻ cực đoan mới hiểu một cách máy móc là đàn ông ưu việt hơn phụ nữ. Tuy
nhiên, tôi vui mừng khi thấy anh ta bị khán giả dồn lên chỉ trích, trong đó
có cả một cô gái Hồi giáo.
Việt Nam chưa có chiến binh
thánh chiến, nhưng liệu lịch sử tôn giáo dung hòa của Việt Nam có thể ngăn cản
sự hình thành những chiến binh thánh chiến hay không là một câu hỏi mở.
Vài nguồn tin khảo cứu cá nhân
cho biết một bộ phận dân Hồi Việt Nam bắt đầu có tín hiệu Ả Rập hóa kiểu
Wahhabi. Những bộ quần áo bình thường bắt đầu được thay bằng quần áo chùm màu
đen. Nhiều phụ nữ Hồi trẻ tuổi người Việt Nam bỏ cách tín ngưỡng Hồi giáo
truyền thống, thay tên đổi họ bằng tiếng Ả Rập, che mạng kín mặt, và cho rằng
Hồi giáo không cho phép nam nữ bắt tay nhau.
Những thanh niên Hồi giáo này
hoàn toàn không biết rằng họ đang bị Ả Rập hóa và Wahhabi hóa chứ không phải
Hồi giáo hóa. Trong giới những người trẻ tuổi ở Trung Đông, chỉ những tín đồ
khá thủ cựu đi theo phong trào cực đoan Salafi của Wahhabism mới kiên quyết
rũ bỏ các giá trị và phong cách sống trung dung để quay lại thực hiện lối sống
hà khắc như vậy.
Trong suốt thời gian 9 tháng tại
Trung Đông năm 2012, chỉ có duy nhất một lần tôi bị từ chối bắt tay (một cách
khá lịch sự) bởi một nông dân ở Yemen vì anh ta mới tắm rửa sạch sẽ để chuẩn
bị đi lễ. Sau khi làm lễ, người nông dân này đã hối hả tìm lại tôi để bắt tay
và xin lỗi. Yemen là quốc gia nghèo nhất và cũng cực đoan nhất trong thế giới
Hồi giáo.
Người Hồi ở Việt Nam từ xưa vốn
không có nhiều mối liên quan mật thiết với thế giới Hồi giáo bên ngoài. Khi mở
cửa ra hòa nhập với thế giới, họ hào hứng hòa mình vào cộng đồng lớn, đón nhận
một phiên bản Hồi giáo khác với những gì truyền thống từng được học.
Thiếu đi sự so sánh và cái
nhìn tổng quan, rất nhiều người trong số họ không hề biết rằng phiên bản Hồi
giáo mà họ đang nhận được có thể là một phiên bản khá cực đoan. Và vì ngộ nhận
đây mới chính là “Hồi giáo chính thống”, họ có thể vô tình tiếp nhận một
nhánh tôn giáo mà cả thế giới Hồi giáo đang coi là hiểm họa.
Nhiều quốc gia châu Âu đang thực
sự lo lắng về hàng ngàn chiến binh thánh chiến gốc Trung Đông, dù sinh ra và
lớn lên ở châu Âu nhưng trái tim thuộc về IS.
Không đơn giản chỉ là việc những
chiến binh này được đẻ ra từ tư tưởng Wahhabi bắt rễ tại chính châu Âu bằng
tiền dầu lửa, những chiến binh này sẽ quay trở lại châu Âu, cực đoan hơn, và
mang theo mầm sống IS. Mảnh đất lý tưởng cho mầm sống này chính là những
thánh đường, tu sĩ, và giáo lý đã được từ từ ngấm chất Wahhabi từ hàng chục
năm nay.
Việt Nam chưa có chiến binh
thánh chiến, nhưng liệu lịch sử tôn giáo dung hòa của Việt Nam có thể ngăn cản
sự hình thành những chiến binh thánh chiến hay không là một câu hỏi mở. Sự ảnh
hưởng của Wahhabism lên cộng đồng Hồi giáo Việt Nam có thể chưa rõ ràng,
nhưng bất kỳ khoản tiền viện trợ hoặc học bổng du học đào tạo giáo sĩ Hồi
giáo nào đến từ vùng Vịnh cũng cần phải được cân nhắc kỹ càng.
Như vậy, không chỉ có hàng
ngàn chiến binh thánh chiến gốc Trung Đông sinh ra và lớn lên ở châu Âu sẽ trở
về mang theo mầm sống IS. Tư tưởng IS hoàn toàn có thể bén gốc ở bất kỳ nơi
đâu, miễn là ở đó mảnh đất đã được tưới tắm bằng những đồng tiền dầu lửa từ
những tổ chức tôn giáo cực đoan của vùng Vịnh.
Theo www.bbc.co.uk
|
Thứ Năm, 25 tháng 9, 2014
tìm hiểu về IS
Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2014
Danh Họa Picasso
16:32
No comments
Lá Số
DANH HỌA PABLO PICASSO
1881-1973
Pablo Ruiz
Picasso (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881 lúc 00g42 nhằm ngày 03 tháng 9 năm Tân Tị, giờ Tý),
thường được biết tới với tên Pablo Picasso hay Picasso , là một họa sĩ và nhà
điêu khắc người Tây Ban Nha. Picasso là con đầu lòng của ông José Ruiz y
Blasco và bà María Picasso y López. Ông được đặt tên rất dài là Pablo Diego
José Francisco de Paula Juan Nepomuceno Maria de los Remedios Cipriano de la
Santísima Trinidad Clito Ruiz y Picasso.
Ngay từ khi còn
nhỏ, Picasso đã bộc lộ sự say mê và năng khiếu trong lĩnh vực hội họa, theo mẹ
ông kể lại thì từ đầu tiên mà cậu bé Pablo nói được chính là "piz",
cách nói tắt của từ "lápiz", trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là
bút chì. Cha của Picasso là một họa sĩ chuyên vẽ chim theo trường phái hiện
thực, ông José còn là một giảng viên nghệ thuật và phụ trách bảo tàng địa
phương, trường Mỹ thuật công nghệ tạo hình của Barcelona. Vì vậy, Picasso có
được những bài học đầu tiên về nghệ thuật chính từ cha mình.
Vào Học viện mỹ
thuật (Academia de San Fernando) tại Madrid được chưa đầy một năm, năm 1900
Picasso đã bỏ học để sang Paris, trung tâm nghệ thuật của Châu Âu thời kỳ đó.
Tại thủ đô nước Pháp, ông sống cùng Max Jacob, một nhà báo và nhà thơ, người
đã giúp Pablo học tiếng Pháp. Đây là giai đoạn khó khăn của người họa sĩ trẻ
khi ông phải sống trong cảnh nghèo túng, lạnh lẽo và đôi khi tuyệt vọng, phần
lớn tác phẩm của Pablo đã phải đốt để sưởi ấm cho căn phòng nhỏ của hai người.
Năm 1901, cùng với người bạn Soler, Picasso đã thành lập tờ tạp chí Arte
Joven ở Madrid.
Số đầu tiên của tạp chí hoàn toàn do Pablo minh họa.
Trong những năm đầu
của thế kỉ 20, Picasso thường xuyên qua lại giữa hai thành phố Barcelona và
Paris. Tại Paris, Picasso kết bạn với rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng ở khu
Montmartre và Montparnasse, trong đó có người sáng lập trường phái siêu thực
André Breton, nhà thơ Guillaume Apollinaire và nhà văn Gertrude Stein. Năm
1911, Picasso và Apollinaire thậm chí đã từng bị bắt giữ vì bị nghi ăn trộm bức
tranh Mona Lisa khỏi Bảo tàng Louvre nhưng cuối cùng hai người cũng được tha
vì vô tội.
Năm 1904, ông bắt
đầu mối quan hệ lâu dài với Fernande Olivier, người phụ nữ xuất hiện trong rất
nhiều tác phẩm Thời kỳ Hồng của họa sĩ. Thời kỳ này được gọi là Thời kỳ Hồng
vì đây là thời kỳ ông toàn dùng màu hồng nhạt mềm mại để làm nền tranh cho
mình, thời kỳ Hồng của ông được tồn tại trong 3 năm. Sau khi bắt đầu nổi tiếng
và trở nên giàu có, Picasso đã bỏ Olivier để quan hệ với Marcelle Humbert mà
ông gọi đơn giản là Eva, chủ đề của rất nhiều bức tranh theo trường phái lập
thể của ông. Sau đó ông còn đi lại với nhiều người phụ nữ khác mặc dù đã có vợ
và con.
Tác phẩm Các
tác phẩm của Picasso thường được phân loại theo các thời kỳ khác nhau. Tuy rằng
tên gọi các thời kỳ sáng tác sau này của họa sĩ còn gây nhiều tranh cãi, người
ta phần lớn đều chấp nhận cách phân chia thời kỳ sáng tác của Picasso thành :
-Thời kỳ Xanh (1901–1904): Có lẽ cách dùng
màu xanh thẫm của họa sĩ chịu ảnh hưởng từ chuyến đi xuyên Tây Ban Nha và sự
tự sát của người bạn Carlos Casagemas.
-Thời kỳ Hồng (1904–1906):
Năm 1904 tại Paris, Picasso gặp Fernande Olivier, một
người mẫu cho các họa sĩ và nhà điêu khắc, rất nhiều tác phẩm của ông trong
thời kỳ này chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ nồng ấm giữa hai người.
-Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu - điêu khắc (1908–1909): bắt đầu với tác phẩm nổi tiếng Những cô
nàng ở Avignon (Les Demoiselles d'Avignon) lấy cảm hứng từ những đồ tạo
tác Phi châu. Ông cho rằng mọi loại nghệ thuật phải tự học được cái hay của
nhau. Ông chọn châu Phi làm cảm hứng của mình bởi tính Lập thể rõ ràng của
nó.
Những cô gái ở Avignon
-Thời kỳ Lập thể phân tích (1909–1912): Chủ
nghĩa Lập thể phân tích là phong cách vẽ mà Picasso đã phát triển
cùng Georges Braque theo đó sử dụng những màu đơn sắc ngả nâu cho
các tác phẩm.
-Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919): Đây
là sự phát triển chủ nghĩa lập thể của Picasso với việc sử dụng nghệ thuật cắt
dán bằng các chất liệu vải, giấy báo, giấy dán tường để mô tả đề tài tĩnh vật
và nhân vật.
-Chủ nghĩa cổ điển và siêu thực: Sau Thế
chiến thứ nhất, Picasso bắt đầu thực hiện các tác phẩm theo trường phái tân
cổ điển (neoclassicism). Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của
Picasso, bức Guernica đã được sáng tác trong thời kì này. Bức tranh mô tả
cuộc ném bom vào Guernica của phát xít Đức trong Nội
chiến Tây Ban Nha.
Picasso và bức Guernica
-Giai đoạn cuối đời: Picasso là một trong 250
nhà điêu khắc tham gia Triểm lãm điêu khắc quốc tế lần thứ 3 tổ chức tại Bảo
tàng mỹ thuật Philadelphia vào mùa hè năm 1949.
Trong thập niên 1950, họa sĩ một lần nữa
thay đổi phong cách sáng tác, ông thực hiện các bức tranh dựa trên phong cách
của các bậc thầy cổ điển như Diego Velázquez, Goya, Poussin, Édouard
Manet, Courrbet và Delacroix.
Khi Picasso qua đời, rất nhiều tác phẩm
do họa sĩ sáng tác vẫn thuộc quyền sở hữu của ông
vì Picasso cảm thấy
không cần thiết phải bán chúng. Thêm vào đó, ông còn có một bộ sưu tập
rất giá trị các
tác phẩm của những họa sĩ yêu thích như Henri Matisse. Vì Picasso không
để lại di chúc, một phần bộ sưu tập này được dùng để trả thuế cho chính phủ
Pháp và nó được trưng bày tại Bảo tàng Musée Picasso tại Paris. Năm
2003, những người thân của họa sĩ đã cho khánh thành một bảo tàng tại thành
phố quê hương ông, Málaga, đó là Bảo tàng Museo Picasso Málaga.
Pablo Picasso từ
trần ngày 8 tháng 4 năm 1973 tức là ngày 06-3-Quý Sửu tại Mougins, Pháp,
trong khi ông cùng bà Jacqueline đang chủ trì một buổi tiệc với bạn bè, thọ
93 tuổi. Tác phẩm ông để lại gồm có 1.800 bức tranh sơn dầu, 3 vạn bản tranh,
7.000 bức ký họa phác thảo và có khá nhiều tác phẩm khó hiểu. Picasso được an
táng tại công viên Vauvenargues ở Vauvenargues, Bouches-du-Rhône,
Pháp.
Picasso có vài bức
tranh nằm trong danh sách những tác phẩm nghệ thuật đắt giá nhất thế giới:
-Bức "Nude
on a black armchair" - được bán với giá 45,1 triệu USD năm 1999.
-Bức Les
Noces de Pierrette - được bán với giá hơn 51 triệu USD năm 1999.
-Bức Garçon
à la pipe - được bán với giá 104 triệu USD tại nhà đấu
giá Sotheby's ngày 4 tháng 5 năm 2004 đã lập kỉ
lục thế giới về giá cho một tác phẩm nghệ thuật.
-Bức Dora
Maar au Chat - được bán với giá 95,2 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby's
ngày 3 tháng 5 năm 2006.
(Tổng hợp từ Wikipedia.org)
Lá
Số TỬ VI
Mệnh, nội là Tử Phủ Vũ Tướng
Liêm, ngoại Sát Phá Tham. THÂN Mệnh đồng
cung với Vũ Khúc Xương Khúc Khoa Kị tài giỏi, thêm Khôi Việt quý hiếm kì tài.
Càng hay hơn khi Phủ Tướng có Cáo Phụ
. Rất độc đáo và hiếm có một bộ TPVTL hợp cách văn khoa tinh nhiều như thế. Chưa
kể Tả Hữu nhất hô bá nặc nữa. Nếu Mệnh có Quyền chắc là ông đã tham chính hoặc
vào quân đội để “nhất hô bá nặc”. Tuy thế, ngày nay khi nhắc đến tên ông
không ai có thể phủ nhận Phủ Cáo và thán phục vì Vũ Đào Khoa Khúc Kị tài hoa lạ kì của ông.
Đặc biệt Mệnh lại có Linh Tinh
không bị phá cách nên càng linh diệu, Việt Linh Khoa Kị ngôi sao sáng chói.
Cũng nhờ cách Kình Linh Khôi Việt mang ý chống lệnh, không theo cũ chẳng theo
mới, ông đã tạo nên trường phái Lập Thể, phải có Đào Quả Khoa Kị thì ông Vũ Khúc tài năng mới tạo ra bước
ngoặt nỗi trội với kết quả xuất chúng như thế. Thật ra ông là người chống chiến tranh và nó luôn tiềm ẩn trong tranh của ông.
Phủ Khoa tức là môn học về
quét, phủ, sơn, lấp...Trong xây dựng là nghề sơn. Hội họa cũng quét phủ thế
thôi.
Một sự thú vị nữa là từ Tật
Ách cung ta thấy Thiên Hình ngộ Tam
không, nghĩa là hình dáng, hình dạng không giống ai cả, đi với Cự Cơ Đồng và
Thái Dương xung, rõ ràng cả cơ thể, miệng, mắt, bụng gì cũng chả giống ai. Lập
thể, được thể hiện từ góc nhìn nhiều chiều không gian hội tụ lại. Tranh của
Picasso, vì thế, không dễ nhìn và khó hiểu.
Vũ Tướng có Đào Hồng Khôi Việt,
Picasso có trang tình sử khá dày.
Bước vào đại vận 93-102, Thiên
Cơ có Bạch Hổ gặp Lưu Triệt hội Tang
Khốc thêm từ Ách cung có Hình gia Lưu Việt, tiểu vận Phi Hỏa Lưu Khôi Lưu
Tang nhị hợp Mệnh Linh Kị, vậy là ngôi
sao kì lạ đã bay vào hư vô. Ông mất khi cùng vợ chủ trì buổi tiệc với bạn bè.
Câu hỏi:
Nếu
Thiên Hình ở Mệnh (hội mệnh) với lá số như Picasso, bạn nghĩ gì?
|
Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2014
Anh Hùng Áo Vải Đất Lam Sơn
Lá Số
Vua LÊ LỢI
1385-1433
Tượng Vua Lê Lợi ở Thanh Hóa
Tổ bốn đời của Lê Lợi là Lê Hối,
người Thanh Hóa. Một hôm đến vùng núi Lam Sơn thấy cảnh đất lành
chim đậu, ông dời nhà về đây.
Lê Lợi sinh vào giờ Tý ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu, tức
ngày 10 tháng 9 năm 1385 đời nhà Trần tại quê mẹ ở làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương (sau là Thủy
Chú, nay là Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). . Bố ông là hào phú Lê
Khoáng lấy bà Trịnh Thị Ngọc Thương sinh được ba người con: Lê Học, Lê
Trừ và Lê Lợi.
Lê Lợi vừa lớn lên đã chứng kiến sự sụp đổ
của triều Trần, những cuộc khởi nghĩa của nông dân và những cố gắng cải
cách của triều Hồ. Những biến động chính trị-xã hội đó hẳn có ảnh hưởng đến nhận
thức, tư tưởng của Lê Lợi, nhưng có lẽ chưa tác động bao nhiêu đến địa vị và
chí hướng quân trưởng của miền núi rừng Lam Sơn xa xôi.
Sau khi bức ép vua Trần dời đô từ Thăng
Long vào Tây Đô (Thanh Hóa) và giết hàng loạt quần thần trung
thành với nhà Trần, tháng 2 năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý
Ly truất ngôi của Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu
là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ.
Triều
đình nhà Minh (Trung Quốc), vốn rất muốn xâm lăng Đại Ngu, đã
nhân cơ hội Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần để đưa quân tràn vào đất Việt
năm 1407. Hồ Quý Ly liên tục thất bại và đến tháng
6 năm 1407, thì bị bắt cùng các con trai là Hồ Nguyên Trừng và Hồ
Hán Thương. Vương triều Hồ và nước Đại Ngu sụp đổ.
Nhà Minh thực hiện chính sách xóa bỏ nền Văn
minh sông Hồng bằng các cách như đốt, phá và chở về Yên Kinh tất
cả các loại sách, văn bia có nói về dân Việt, của dân Việt tạo lập, thiến hoạn
đàn ông người Việt, khiến cư dân Việt rất uất ức và căm giận. Hơn 1.000 năm,
các triều đình Trung Quốc không đồng hóa được văn hóa Việt, nên việc
làm của nhà Minh đã đem lại một kết cục xấu cho sự đô hộ của họ.
Khởi nghĩa Lam Sơn
Đầu năm Bính Thân (1416) Lê Lợi cùng 18 người
bạn thân tín nhất, cùng tâm huyết và chí hướng, trong đó có Nguyễn Trãi, làm lễ
thề kết nghĩa anh em, nguyện sống chết “chung sức đồng lòng chống giữ địa
phương để trong cõi được ở yên".
Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt,
đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn
An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú,... tất cả 50 tướng văn và tướng võ chính thức
phất cờ khởi nghĩa. Đồng thời ông tự
xưng là Bình Định Vương và kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh đuổi quân
xâm lược Minh cứu nước.
Trong thời gian đầu, lực lượng
của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng
được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh đánh bại. Hoạt động trong thời này chủ yếu
ở vùng núi Thanh Hóa. Có những lúc Lê Lợi và quân Lam Sơn phải trốn chạy.
Bị quân Minh vây đánh nhiều trận, quân Lam Sơn khốn đốn ba lần phải rút
chạy lên núi Chí Linh những năm 1418, 1419, 1422 và một lần cố thủ ở
Sách Khôi năm 1421. Một lần bị quân Minh vây gắt ở núi Chí Linh (có sách ghi
năm 1418, có sách ghi năm 1419), quân sĩ hết lương, anh em kết nghĩa của Lê Lợi
là Lê Lai theo gương Kỷ Tín (tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang thời chiến tranh
Hán-Sở) phải đóng giả làm Lê Lợi, dẫn một toán quân ra ngoài nhử quân Minh.
Quân Minh tưởng là bắt được chủ tướng Lam Sơn nên lơ là phòng bị, Lê Lợi và các
tướng lĩnh thừa cơ mở đường chạy thoát. Lê Lai bị quân Minh giải về Đông Quan
và giết chết.
Ngoài quân Minh, Lê Lợi và quân Lam Sơn còn
phải đối phó với một bộ phận các tù trưởng miền núi tại địa phương theo nhà
Minh và quân nước Ai Lao (Lào) bị xúi giục hùa theo. Dù gặp nhiều gian nan,
quân Lam Sơn mấy lần đánh bại quân Ai Lao. Tuy nhiên do lực lượng chưa đủ mạnh
nên Lê Lợi thường cùng quân Lam Sơn phải ẩn náu trong rừng núi, nhiều lần phải
ăn rau củ và măng tre lâu ngày; có lần ông phải giết cả voi và ngay cả con ngựa
đang cưỡi của mình để cho tướng sĩ cùng ăn.
Trước
tình thế hiểm nghèo, Lê Lợi phải xin giảng hòa với quân Minh năm 1423. Đến năm
1424, khi quân lực và lương thực được củng cố, lại thấy quân Minh bắt giết sứ
giả, nên Lê Lợi liền tuyệt giao cắt đứt giảng hoà.
Vương Thông nghe tin hai đạo
viện binh bị đánh tan, sợ hãi xin giảng hòa để rút quân. Lê Lợi đồng ý cho giảng
hòa để quân Minh rút về nước. Ông cùng Vương Thông tiến hành làm lễ thề trong
thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp âm lịch năm Đinh Mùi (1427) rút quân về.
Lê Lợi đứng thay Trần Cảo là
người đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin
được phong. Vua Minh Tuyên Tông biết Lê Lợi không có ý lập tôn Cảo
nhưng vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương.
Tháng chạp, Vương Thông rút
quân về nước. Các tướng muốn giết họ để trả thù tội ác đối với người Việt trong
suốt thời gian Việt Nam dưới ách đô hộ của triều Minh, Lê Lợi không đồng tình
vì muốn giữ hòa khí hai nước, cấp thuyền và ngựa cho quân Minh về.
Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo
bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh quân
Minh. Đây là áng văn chương nổi tiếng, rất có giá trị đời Lê, được coi là bản
tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam, sau bài thơ Nam Quốc Sơn Hà.
Trị vì:
Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế năm 1428,
tức là vua Lê Thái Tổ, chính thức dựng lên triều Hậu Lê. Ông khôi phục quốc
hiệu Đại Việt, đóng đô ở Thăng Long và đổi tên Thăng Long
thành Đông Kinh vào năm Thuận Thiên thứ hai (1430).
Các nhà nghiên cứu thống nhất rằng những sự
kiện mà Lê Lợi giết hại các triều thần thân tín, trên thực chất là kết quả của
sự thắng thế của phe Lê Sát trong triều đình mà thôi. Hơn nữa, những hành động
của vua Thái Tổ để bảo vệ sự thống trị của nhà Lê cũng mang tính hệ thống. Đầu
tiên là giết Trần Cảo. Sau đó giết Trần Nguyên Hãn là con cháu nhà Trần. Tất cả
những hành động đó đều nhằm khiến thiên hạ hết sự nhớ tiếc nhà Trần. Và Lê
Tư Tề cũng là nạn nhân trong đó.
Vua Lê Thái Tổ ở ngôi được 5 năm thì qua
đời vì bạo bệnh vào ngày 22 tháng 8
nhuận âm lịch năm 1433 Quý Sửu, hưởng dương 49 tuổi. Vì nhớ
công Lê Lai chết thay cho mình ở núi Chí Linh trước kia, ông dặn lại
đời sau phải giỗ Lê Lai trước khi giỗ ông một ngày. Bởi thế đời sau truyền lại
câu: "Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi". Thật ra việc này có nhiều bí ẩn.
Lê Thái Tổ được an táng tại
Vĩnh Lăng, Lam Sơn. Thái tử Lê Nguyên Long 11 tuổi lên nối ngôi, tức là
vua Lê Thái Tông.
Sau thời kỳ độc lập hơn 400 năm kể từ thế kỷ
10, Đại Việt có nguy cơ trở lại thành quận huyện của Trung Hoa.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi đã chấm dứt 20 năm cai trị của nhà
Minh tại Đại Việt và chấm dứt hẳn sự đô hộ của Trung Quốc thời phong
kiến. Bởi công lao to lớn đó của ông nên đời sau còn nhớ, dù nhà Lê khi bị nhà
Mạc cướp ngôi vẫn là một nguyên nhân khiến nhà Lê có thể trung hưng
(1533). Thậm chí ngay cả khi con cháu triều Lê không còn nắm được thực quyền
thì trên danh nghĩa vẫn là người đứng đầu thiên hạ. Chúa Trịnh sau
này làm phụ chính nhiều đời nhưng vẫn không dám cướp ngôi nhà Lê cũng bởi sợ dư
luận còn nhớ công lao giành lại độc lập cho đất nước của nhà Lê.
Về cai trị, ông cũng là người thiết lập lại
trật tự, quy củ của chế độ phong kiến các triều đại Lý, Trần trước đây mà các
thế hệ vua sau tiếp tục củng cố, phát triển cao hơn nữa.
Đến cuối đời, rất tiếc, ông đã có những quyết định sai lầm dẫn đến cái
chết của những trung thần như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo. Từ trước đó, khi về
trí sĩ, Trần Nguyên Hãn đã nói riêng với người thân cận: Nhà
vua có tướng như Việt vương Câu Tiễn, cho nên, ta không thể yên hưởng vui
sướng được. (Việt vương Câu Tiễn có tướng cổ dài, mép quạ, tức là
tướng chim ưng. Có thuyết cho rằng Trần Nguyên Hãn trực tiếp nói câu này với
Nguyễn Trãi.)
Tuy nhiên, xét về tổng thể Lê
Lợi vẫn là một vị vua tài năng, có công lớn trong việc đánh đuổi quân Minh,
giành lại độc lập cho dân tộc Việt Nam.
(Tổng
hợp theo Wikipedia)
Bia Vĩnh Lăng
LÁ SỐ TỬ VI:
Đây là lá số mẫu mực cho bộ Phi Phượng Hổ tại Mệnh.
-Lê Lợi Mệnh THÂN đồng cung VCD tại Dậu có Cự
Cơ xung, nói cách khác nội Âm Dương Lương, ngoại Cự Cơ Đồng khá phức tạp nên suốt
đời cũng không mấy yên thân. Con nhà hào phú giàu có nhờ song Lộc chiếu Mệnh
THÂN. Cự Kị chí hướng khác thường, phi
thường nhờ thêm Phi Phượng Quyền.
Dù có Hóa Kị nhưng đi với Tứ Linh lại hay,
gia thêm Quyền thành cách Quyền Khốc Phượng Kị uy danh phi thường kì lạ, bộ
Thanh Phi Phục hợp với Cơ Lương là lương dân hiền hòa nhưng có Cự Binh nên phải
khởi binh, vì thế mới gọi là anh hùng áo
vải. Cái xấu nơi đây chính là Cơ Tang Hổ Hỏa tại THÂN thì dù là con Hổ uy
thế gầm vang cũng khó mà tránh khỏi cái THÂN yểu thọ. Nhờ bộ Thanh Phượng Tuế ngài ghi danh lịch sử và mãi được tôn thờ.
Thêm nữa, từ Phụ Tử Nô thấy Lưu Quả Tấu Hồng
Ân Xương Cáo là khắc ghi những lời ca ngợi ân đức và công lao (Đà Lực) của
ngài, thực tế chính Nguyễn Trải đã soạn và cho khắc lên bia Vĩnh Lăng sau khi
ngài mất 2 tháng. Ta thấy Tử Vi hay kì lạ thật!.
-Đại vận
32-41, Thất Sát Đào Hoa chọn lựa chiếm đoạt, nói hay một tí là tạo ra cuộc chiến,
dù vậy với Triệt Đà gian khổ và thất bại không phải là ít, phải đến 10 năm sau (1428) vào vận Lương Quyền Phục mới đem yên bình trở lại. Khởi nghĩa, Cự Binh nhưng
qua tiểu vận Thiên Tướng (năm Mậu Tuất 1418) mới là khởi nghĩa thật sự, nhờ Tử Vi quyết
định hành động, gia thêm Kình Hình Linh mạnh mẽ hơn khi được Khôi Việt xúc tác
cho Mệnh Cự Cơ có cơ hội hành động chống phá. Phá dữ dội vì có Phá Quân gặp Đại
Hao rống lên tiếng “Sát”. Cũng là vận Sát Đào này nhưng nếu có Diêu Hư thì chỉ
biết sát gái thôi.
-Về việc sát hại công thần, Mệnh
VCD chi phối quá mạnh từ Di cung “Cát xứ tàng hung” Cự Tồn Kị và bọn Tả Hữu KK gây
thị phi, nên Lê Lợi đã làm điều sai trái Phi Liêm. Ở đây còn tiềm ẩn cách Kình
Đà hiệp Kị cho nên ngài cũng rất khổ tâm khi phải làm điều đó, hơn nữa Kị tạo
nên sự đa nghi quá mạnh cho VCD, nhất là Cự Môn có tính lo sợ . Sự lo lắng cho ngôi báu của con cùng với sự dèm pha, xúi bẩy của bọn xu
nịnh đã đưa Lê Lợi đến hành động sát hại hai công thần và cũng là hai người bạn
chiến đấu đã từng vào sinh ra tử hồi hồi bình Ngô là Trần Nguyên Hãn và Phạm
Văn Xảo.(theo Danh nhân Hà Nội).
-Năm Quý Sửu 1433, dù là đại vận
(42-51) có Âm Lương may mắn, nhưng bị Không Kiếp xung cũng đã làm thay đổi
lương tâm con người mang ngôi sao vốn dễ lo âu bất mãn và Kị hội chiếu thêm Lưu
Việt phát nạn, tiểu hạn tại Phối có Bệnh Phù Hư Hỏa Kiếp, với Cơ Tang lại gia
Lưu Tang bất lợi thêm Lưu Đà Hư, Kị lại gặp Triệt và Lưu Triệt xung. Ngài mất
vì bệnh hiểm nghèo. Để lại nỗi buồn đau cho đất nước Ấn Tang Kiếp.
Tật Ách cung Việt Linh Hình,
lại có Khoa nếu ở thời nay có thể sống nhờ phẩu thuật.