BEETHOVEN VÀ BẢN GIAO HƯỞNG SỐ 9
Hoàn
cảnh sáng tác
Hiệp hội London (The Society of London -
sau này là Royal Philharmonic Society) đặt hàng bản giao hưởng vào năm 1817.
Beethoven bắt đầu làm việc với bản giao hưởng cuối cùng vào năm 1818 và kết
thúc vào đầu năm 1824. Khoảng 10 năm sau bản giao hưởng số 8. Tuy nhiên,
Beethoven bắt đầu sáng tác tác phẩm này sớm hớn. Ông đã muốn đặt An die
Freude vào nhạc rất sớm từ năm 1793. Ông đã làm điều đó, nhưng thật không may
tác phẩm này bị mất vĩnh viễn. Từ chủ đề cho chương scherzo có thể lần ngược
về bản fugue được viết vào năm 1815.
Đoạn mở đầu cho phần thanh nhạc của bản
giao hưởng gây ra rất nhiều khó khăn cho Beethoven. Bạn ông, Anton Schindler,
sau này kể lại: "Khi anh ấy bắt đầu sáng tác chương 4, sự nỗ lực bắt đầu
như chưa bao giờ có. Mục đích là tìm ra cách đi vào phần mở đầu của đoạn tụng
ca của Schiller. Một hôm Beethoven nhảy vào phòng và la lớn "Tôi tìm ra
rồi, tìm ra rồi" Sau đó anh ấy cho tôi xem phác thảo của những từ
"cho chúng tôi hát bản tụng ca của Schiller bất tử". Tuy nhiên, đoạn
mở đầu đó đã không có trong sản phẩm cuối cùng, và Beethoven đã trải qua rất
nhiều thời gian viết lại phần đó cho đến khi nó thành hình dáng như chúng ta
thấy ngày hôm nay
National Youth Choir of Great Britain
West-Eastern Divan Orchestra
Daniel Barenboim, conductor
Royal Albert Hall, 27 July 2012
Giao hưởng số 9 của Beethoven thuộc vào số
ít tác phẩm của nền nghệ thuật thế giới, như những đỉnh núi cao nhất, trội
hơn tất cả những gì mà những thiên tài nghệ thuật của nhân loại tạo nên. Cũng như những bài thơ của Homerk "Thần
khúc" (Divina commedia) của Dante, tranh Đức mẹ của Raphael,
"Faust" của Goethe hoặc khúc Messe (Die hohe Messe) của Bach, giao hưởng số 9, là con đẻ của thời
đại của mình, đồng thời là sự thể hiện những lý tưởng và hoài bão của loài
người. Nhạc sĩ hoàn thành bản giao hưởng vào cuối đời nhưng đã nghiền ngẫm
trong suốt cuộc đời mình. Hồi còn trẻ, say sưa với những tư tưởng của cuộc cách mạng Pháp,
Beethoven tìm tòi thể hiện âm nhạc bài thơ ca ngợi (Ode) "Hướng tới niềm
vui" (Ode to Joy) của Schiller, mà ông đã lấy lời thơ ấy viết màn hợp xướng
chương cuối của giao hưởng số 9. Những tư tưởng về tình hữu ái nhân loại, về
tự do được đưa vào giao hưởng đã thôi thúc ông mãi trên suốt cả con đường
sáng tác. Không phải ngẫu nhiên mà chủ đề âm nhạc của chương cuối nảy sinh
trước khi có bản giao hưởng, và có thể tìm thấy trong các tác phẩm khác của
Beethoven không ít những hình ảnh tương tự với chủ đề ấy. Nói một cách khác,
giao hưởng số 9 - là sự tổng kết những tìm tòi tư tưởng nghệ thuật của nhạc
sĩ.
Bản giao hưởng được xây dựng trong thời
gian mà thời kỳ cách mạng Pháp đã đi vào dĩ vãng, và thế lực phản động đang
ngự trị ở Châu Âu. Những hy vọng đã đổi thành thất vọng. Trong nghệ thuật đã
nảy sinh một trào lưu mới - chủ nghĩa lãng
mạn, thể hiện những tâm trạng mới. Công trạng của người nghệ sĩ ca
ngợi Trí tuệ, Tự do, Niềm tin trong thời kỳ đen tối ấy ấy càng có ý nghĩa lớn.
Giao hưởng số 9 - một bản tuyên ngôn âm nhạc của thế kỷ 19, như Lenin nói: "tiến hành dưới khẩu
hiệu của cuộc cách mạng Pháp.
Giao hưởng số 9 - tác phẩm cải cách sâu sắc.
Lần đầu tiên lời hát được đưa vào giao hưởng. Thủ pháp táo bạo ấy rất cần thiết
đối với Beethoven. Sự phát triển của tư tưởng của bản giao hưởng đã gợi ý việc
đưa lời hát vào như tiếng nói của nhân loại, tính cụ thể của lời ca cần cho
việc diễn đạt kết luận tư tưởng chủ yếu của quan điểm triết học to lớn. Nhưng
cái đó không hạn chế cái mới của Beethoven. Ông đổi vị trí của Scherzo và
Adagio, viết những đoạn ngoài cùng của chương Scherzo theo hình hình thức sonata
allegro. Thiên tài Beethoven đã đạt đến độ trưởng thành tột bực trong giao hưởng
số 9. Bản giao hưởng gây xúc động mạnh bởi tính bi kịch của những nỗi đau khổ
của nhân loại, cuộc đấu tranh tư tưởng lớn lao, tư tưởng cao cả, nguồn cảm hứng
của chủ nghĩa nhân
văn tổng kết con đường sáng tác của Beethoven - nhà soạn nhạc
giao hưởng. Bản giao hưởng số 9 mở ra những triển vọng mới đối với nền nghệ
thuật âm nhạc của những thế hệ tiếp theo.
Chương
I
Allegro ma non troppo, un poco maestoso.
Thời gian xấp xỉ: 15 phút
Trong màn sương tối lờ mờ, bất định, hiện
ra phần mở đầu của bản giao hưởng. Hồi hộp, đầy bí ẩn của đợi chờ, tiếng vê
(tremolo) chập chờn mờ ảo của violin, trên nền tremolo ấy thấp thoáng những
bóng lờ mờ các motiv, nhạc sĩ đang lần dò những tuyến mạch của chủ đề chính
sau này, nó đã hình thành, và sau một sự chuẩn bị lâu dài, bằng sự nỗ lực
hùng mạnh của dàn nhạc, cuối cùng, khẳng định chủ đề chính. Xuất hiện hình tượng
thuyết nguồn gốc vũ trụ, dường như từ bóng tối của vô biên vũ trụ xuất hiện
và tuyên bố về mình một cách uy quyền, mệnh lệnh: "Tôi đang có ở đây". Nhưng vũ trụ sinh ra xù xì, đầy rẫy
những mâu thuẫn sôi sục, nảy sinh không khí đấu tranh, xung đột. Sự phát triển
sôi động đó dẫn đến chủ đề phụ - phản đề trữ tình đối với chủ đề một, âm nhạc
mang màu sắc trưởng, xuất hiện cao trào anh hùng ca - những tia sáng đầu tiên
của thắng lợi. Và bỗng nhiên trở lại một sự yên lặng hung dữ, những tiếng kèn
hiệu nghiêm trọng thông báo trận chiến đấu bắt đầu, gợi lại trong ký ức những
hình tượng người khổng lồ một mắt trong sử thi anh hùng cổ đại. Ngôn ngữ của
bản giao hưởng bị mất tính chất tạo hình, nhưng thay vào đó là áp lực kịch
tính và thoái trào kiệt sức, trong âm thanh rùng rợn của chủ đề chính, trong
tính nhất quán, nhằm một mục tiêu nhất định của sự phát triển âm nhạc, đã thể
hiện được hình tượng uy nghi, hùng tráng của hành động, của cuộc chiến đấu.
Giai đoạn tột cùng của cuộc chiến đấu trùng hợp với sự bắt đầu phần nhắc lại
(Reprise). Từ lúc ấy sự hoạt động đưa đến không thương xót sự kết thúc bi thảm
trong đoạn đuôi (Coda). Âm nhạc có sắc thái tang lễ trọng thể. Tuy vậy
"ý kiến tối hậu" không thể bác bỏ được vẫn thuộc về chủ đề chính
quyền uy và hùng dũng.
Chương
II
Scherzo: Molto vivace - Presto. Thời gian xấp xỉ: 10
phút.
Phá bỏ tập tục cũ, Beethoven để khúc
Scherzo ngay sau chương I. Nó xóa bỏ yếu tố bi thảm lúc đầu - Scherzo - cảnh
huy hoàng có khí thế và hiệu lực, nó lao nhanh dồn dập như một trận bão lửa,
tạo nên ấn tượng lúc thì mang tính chất anh hùng ca, lúc thì phóng túng, mơ mộng.
Nhưng trong dòng âm thanh như đuổi theo nhau đó khuôn phép nghiêm ngặt về nhịp
điệu vẫn khống chế. Những phần ngoài cùng được viết ở hình thức sonata
allegro (lại một cải tiến mới mẻ nữa) tương phản với phần trio mang tính chất
phong cảnh phong tục, với nhiều màu sắc tươi sáng của đồng quê.
Chương
III
Adagio molto e cantabile
- Andante Moderato - Tempo Primo - Andante Moderato - Adagio - Lo Stesso
Tempo. Thời gian xấp xỉ: 16 phút.
Thể hiện lý tưởng đạo đức, vẻ đẹp và tính
chất hùng vĩ của âm nhạc đầy cảm hứng bởi ý tưởng cao cả về đạo đức và hoàn
thiện, sứ mệnh và nghĩa vụ của con người. Tính chất minh bạch sáng sủa, sự
hài hòa của lý trí và tình cảm bao trùm niềm suy tư triết lý tỉnh táo ấy.
Dòng nhạc thong thả, đầy đặn, sự luân chuyển và bổ sung lẫn nhau của hai chủ
đề và các biến tấu của chúng rất chặt chẽ và hợp lý, hơi thở của giai điệu vô
cùng rộng rãi. Điệu trưởng chiếm ưu thế hầu như khắp nơi trong nền tảng dàn
nhạc đầy chất giai điệu tươi sáng, chỉ có hai lần bị phá vỡ do sự xâm nhập của
chủ đề chính của chương I - như muốn nhắc rằng đạt được sự rõ ràng và cân đối
ấy phải trả bằng một giá đắt.
Chương
IV
Presto; Allegro molto assai (Alla marcia); Andante maestoso;
Allegro energico, sempre ben marcato. Thời
gian xấp xỉ: 24 phút
Chương cuối với phần đầu tràn lên dữ dội,
khôi phục cái lạc điệu tưởng như đã được khắc phục. Nhưng điều đó chỉ là sự cố
gắng để quay về. Nhưng sự trở về đã không thể có được logic phát triển của
"những sự kiện" nhất quyết dẫn đến thắng lợi của niềm vui. Những chủ
đề của những chương trước - những đoạn đường đã bị vượt qua - nối tiếp nhau
đi, nhưng chủ đề nào cũng bị bè cello "cự tuyệt" bằng cách nói
cương quyết: không một chủ đề nào có thể nói là chủ đề của chương cuối.
Cần phải tìm cái nào đó có phẩm chất mới,
hơn hẳn tất cả những gì đã có từ trước đến nay và có thể nói lên kết quả phát
triển tư tưởng âm nhạc của bản giao hưởng. Một khoảnh khắc yên lặng trong dàn
nhạc. Và cuối cùng chủ đề mới ấy xuất hiện, chủ đề Niềm Vui. Chính nhờ tính
chất mộc mạc mà nó được xem như một sự phát triển rõ ràng.
Đầu tiên là cello và contrebass diễn tấu chủ
đề ấy, sau đó từng nhóm nhạc cụ khác và cuối cùng, cả dàn nhạc. Đó là niềm
vui đã vượt qua đau khổ, chiến thắng cái ác, là thành quả của sự hài hòa cân
đối cao độ của nội tâm và sự thoải mái về tinh thần của con người. Âm thanh của
chủ đề đạt đến quy mô to lớn, và một lần nữa, lần cuối cùng, nhạc tố hốt hoảng,
kinh hoàng trong chương I lại chen vào. Và lúc đó, lần đầu tiên nghe thấy tiếng
nói của con người: "Ồ các bạn ơi!
Không phải những âm thanh ấy! Tốt hơn hết chúng ta hãy hát cái gì vui tươi!"
Chủ đề Niềm Vui xuất hiện ở các giọng đơn ca và hợp xướng: "Ôi Niềm Vui thần thánh tuyệt vời,
nữ thần của bầu trời! Lòng hân hoan, chúng tôi bước vào thánh đường của người". Từ lúc đó Niềm Vui vô
tận, không gì làm u tối đi, được giữ mãi cho đến cuối chương. Hơn thế nữa, Niềm
Vui được thể hiện trong tất cả sự phong phú về giới hạn và sắc thái. Chủ đề
thông qua một loạt biến hóa, trở thành khúc ca, bài hát ca ngợi tươi sáng.
sưu tầm
|