THÈM
Tôi ghét nhất bia rượu
Sợ vị cay của men
Nhưng
Em
Tôi thèm hương men
Với vị cay
Rất cay.
Daklak
12/8/2018
|
Thứ Hai, 14 tháng 1, 2019
thèm
Cậu Grab
Truyện
ngắn
GÓC XÉO CÀ PHÊ SÁNG
(1)
1 1.CẬU GRAB
Như một thói quen, sau khi chở đứa cháu tới
trường, lão quẹo ra con đường dẫn tới quán cà phê thân thuộc. Đôi lần, thấy
thèm thèm thì ghé vào quán cóc vệ đường điểm tâm dĩa bánh ướt nóng phỏng lưỡi,
hoặc tô bún bò Huế cay xé miệng.
Đã mấy tháng nay, cái quen hơi buổi sáng ấy
lây liếm trong sở thích của lão chỉ có thế. Nắng hay mưa, lão chả cần quan tâm.
Cũng chẳng chú ý gì mấy cái cảnh người đi đến công sở hoặc chở hàng vùn vụt
trên đường hoặc ùn ùn ở ngả tư. Đèn đỏ, ngừng; đèn xanh, đi. Chiếc Future 125cc
mang hai ông cháu cứ mỗi sáng từ trong hẻm sâu len lỏi ra đường cái, dọt lên
lách qua tránh lại đâm tới theo quán tính thiên tài tham gia giao thông của dân
Việt hiện đại. Dám thề rằng những cô gái, chàng trai, các ông và cả quý bà cưỡi
những chiếc xe máy đang vi vu trên đường chẳng có mấy ai có bằng lái xe A1, nếu
có chưa chắc là bằng chính quy; do vậy người ta chạy thoải mái, biểu thị tính
hiển hách vô luật. E rằng, nhất là mấy bà mấy cô, (
xin lỗi nhé ) cứ
nghĩ phụ nữ là ưu tiên nên ít khi nhường ai, chả thèm né tránh cho dù có gặp xe
lỡ quá trớn đối đầu. Theo thống kê mà Ủy ban An toàn Giao thông kê ra qua các
báo trong nước, mỗi năm bình quân hơn 15 ngàn người tử nạn trên mọi con đường
phẳng phiu tân tiến khắp mọi miền đất nước thân yêu . Rất tiếc không thấy phân
lượng giới tính.
-Úi chà, hơi sức đâu hè ! Mụ vợ lão méo
cái môi lên dè bỉu chê lão nhiều chuyện.
-Cái bà ! Đúng là mèo bếp !
Về nhà, thường ngày xảy ra như thế, sau
khi lão tiêu hóa hết mấy miếng bánh ướt hoặc nhúm bún bò mất gần hết buổi sáng ở
quán cà phê.
-Vẫn như cũ bác a ?!
Lão gật đầu cười với cô bé chạy bàn, kéo
chiếc ghế gỗ sơn màu ô-liu ngồi xuống ở góc quán quen thuộc. Vị trí lão thường
ngồi nằm ở góc ngoài của quán, phía trước là hàng hiên có mái bạt kéo, chiếm hết
một nửa vệ đường, vừa đủ kê vài cái bàn theo chiều ngang trước mặt quán. Nửa phần
còn lại dùng để xe, những đuôi xe vừa ngấp nghé sát đường lớn. Khách uống cà
phê, từ trong nhìn ra, có thể thấy rõ được xe mình. Tuy vậy, ở đây vẫn có người
giữ xe. Chỗ ngồi của cậu ta là dưới gốc cây bằng lăng công cộng, điểm biên giữa
hai căn nhà phố. Từ vị trí này, kề
dãy xe, dễ kiểm soát.
Cậu ta, lão gọi là Cậu Grab, xem xém bốn mươi bảy cái sự đời,
nét mặt hơi khắc khổ với lớp da xanh xanh, nụ cười thân thiện làm những nếp
nhăn ở hai đuôi mắt nổi lên như vết khắc trên đá. Cậu Grab có cái tật hay giật ngược đầu hất
mái tóc trước trán lên cao, lấm tấm vài sợi bạc. Cỡi chiếc áo khoác màu xanh lá
có in logo công ty bỏ vào chiếc mũ bảo hiểm cùng màu ném vào gốc cây. Rảnh rổi,
đôi lần, cậu ta kéo ghế ngồi kề lão tán gẫu năm ba chuyện vẩn vơ, chuyện làm
ăn, chuyện ông này quan nọ, giết
thời gian trông chờ hết ca làm. Dường như, quán cà phê là nơi thu thập thông tin thời sự
nhanh nhất cho dù phần nhiều ai cũng có cái @ di động. Ờ, cậu ta chỉ trông xe buổi sáng
thôi. Còn lại chạy grab thồ, rồi phụ dọn hàng, chở vợ từ chợ về. Cơm nước xong,
ai gọi thì tranh thủ vài cuốc thồ đêm. Đã mấy lần Cậu Grab chở lão ra bến xe Miền Tây nên
lão quen miệng gọi tên như thế, cũng vì chả tò mò hỏi han đời tư ai bao giờ.
Nghe phong phanh cậu ta là em chồng của chủ quán. Đơn giản thế thôi, bác ha!
Gói gọn nghe thì thế, nhưng chẳng đơn giản chút nào về sự mưu sinh. Chiếc
Future cùng lão di chuyển buổi sáng vẽ ra một đường cong quẹo đơn giản, nói ra
miệng chỉ là vài câu đơn giản, viết ra giấy cũng chỉ vài dòng chữ giản đơn, chẳng
mấy cái chấm phẩy xuống dòng. Thế mà lão ngẫm đi nghĩ lại thấy chẳng đơn giản
chút nào.
Cậu ta kể trước đây cũng là tay anh chị từng
trải trên chốn buôn lậu hàng cấm từ biên giới Cam-Bốt về. Dù chung chi, lót đường
đầy đủ nhưng vẫn bị mấy trận phản phé. Phải tăng phí, đương nhiên lượng hàng phải
nhân lên. Gan mật cũng tăng thêm tính bạo tợn theo sự tăng trưởng đầu tư kinh tế
đúng quy...trình. Chỉ có cái mà cậu
ta quên tăng, đó là sự nghi ngờ vào kẻ có quyền đã thề hứa bảo lãnh cho cậu ta.
Ba tháng trong tù, cậu ta mới ngộ ra chiều sâu của cái-nên-tăng và cái-nên-giảm
đối với những kẻ hùng hổ bá quyền độc trị, nói một đường làm một nẻo. Trong vòm
trời lem luốc thu hẹp này, hai chữ bảo tín thật phung phí y như phải ấm ức
mua cái an sinh BHXH nhà nước vậy thôi.
Bạc tỉ trong tay cũng đã rồi, bây giờ bạc
lẻ cũng thế thôi, mà khỏe, bác ha ! Cậu ta nhún vai ngửa hai bàn tay ra nói,
sau khi mời lão một điếu thuốc Jet. Giọng nói mang hơi hướng bất cần nhưng
không có vẻ gì bi quan lắm. À, ra thế, dường như lão hơi hiểu hiểu hai tiếng
“đơn giản” thoát ra từ miệng Cậu Grab. Nó mang một cái gì nhè nhẹ từ
lồng phổi cậu ta phả ra theo khói thuốc. Khà hết một tách trà còn nóng mà lão vừa
mới rót ra cho cậu ta, tiếng khà chả khác chi mấy tiếng khà của bợm nhậu khà rượu.
Dường như cậu ta sợ cái kí ức hãi hùng còn sót cặn bã trong cổ họng nên khà cho
nó trôi tuột xuống dạ dày, sẽ tiêu hóa ra cửa hậu môn và rồi, có thể cậu sẽ khà
thật dài một tiếng khoan khoái rất nhẹ nhàng.
-Cuộc sống là thế thôi. Tranh đua làm
gì. Chết chẳng mang theo được chi. Phải không bác ?
Chợt nhiên cậu ta buông ra một câu nghe
quá quen như thế. Lão đến đỗi nhàm tai, nhưng vẫn gật đầu đồng ý. Xét cho cùng,
câu triết lý cùn ấy rất đúng. Thế
nhưng nó thường xuất hiện trên môi miệng của kẻ thất bại, mất mát và kẻ luôn
chán chường. Dường như, nó là phản ứng tự vệ cuối cùng để con người chối bỏ tuyệt
vọng và tìm thấy chút bình an. Những kẻ quyền uy, giàu có, đang ăn ra làm
nên...chẳng ai nói thế, dẫu rằng họ vẫn biết tận ngọn nguồn sự thể ấy. Cậu ta
dùng ngón trỏ gõ gõ lên mặt bàn hát “ tôi
sẽ đem theo với tôi những gì đây”, rồi nói:
-Ông Phạm Duy, thật chán !!
Lão đang suy nghĩ về “cái mang theo được chi”,
buột miệng:
-Chán sao ? !
Lão chỉ chỉ ngón trỏ vào đầu. Cậu grab ngồi
thu mình lại, có vẻ đang mơ màng điều gì đó, mắt nhìn ngước lên trời, hướng mắt
bị tấm bạt cắt xéo một vạt nắng mai còn mang chút hơi lạnh của cơn mưa đêm vướng
lại.
-Dạ. Em đơn giản vậy thôi. Buông bỏ tất.
Cậu
grab vừa khoát tay vừa nói, có một chút lạc giọng và hơi gằn. Bình thường cái
giọng Trung pha Bắc kia nghe nằng nặng nhưng tếu tếu, lão cười với câu nói được
thốt ra từ miệng ấy đã biết bao lần, quen như một câu cuối của điệp khúc được lập
lại nhiều lần trước khi kết thúc bản nhạc. Lão nhìn thẳng vào mặt Cậu Grab, cố phát hiện trong giọng nói ấy
hôm nay có gì khác thường. Cậu Grab
đưa hai nắm tay giụi giụi mắt rồi cũng nhìn trực diện vào lão, miệng cười hài:
-Đừng quên cái bản mặt khốn nạn này nhe
bác. Biết đâu mai này em và bác sẽ còn tái ngộ trên...mây !
-Nói bậy! Cậu mày...
Câu nói của lão bị tắt ngang vì cái vết
thâm thâm xanh vắt qua sóng mũi của Cậu Grab như mới hiện lên đập vào mắt
lão. Lão cố xua cái linh cảm lạnh lạnh vừa nhú ra trong ý nghĩ. Cố hút hết chút
cà phê cặn đọng trong đáy ly, vỗ vào tay cậu ta lão nói như để tránh né :
-Ờ này, Cậu Grab, trưa chiều ngày mốt nhe. Đi bến
xe Miền Đông.
-Cái gì bác, đổi hướng rồi à ?
-Quên quên. Bến xe Miền Tây như mọi khi.
Nhớ là Thứ Sáu đó nghe !
-Ok, bác.
* *
*
Sáng nay, đầu tuần, lão lại chở thằng
cháu đến trường, vẫn trên con đường quen thuộc ồn ào tiếng xe gầm rú. Tự nhiên lão quan sát rất
cẩn thận và chạy chậm hơn thường ngày. Chẳng phải lão sợ mấy ông áo vàng núp ló
trước ngả tư kia. Ngày nào chả có bọn ấy, nhưng tai nạn vẫn cứ đều đều tai nạn.
Lão nghe văng vẳng bên tai tiếng mụ vợ nhắc nhở chạy chậm thôi nghe ông, già rồi
còn hăng máu mà làm chi. Hôm qua đầu ngả tư lộ có tông xe nhau thảm khốc lắm
đó. À, cái...mèo bếp này, lèo nhèo lẽo nhẽo hoài. Ai mà chẳng lo thân chứ. Lão
nghĩ, mình chỉ xếp hạng trung bình chạy thôi. So gì, cái thời còn ở lính ấy, cưỡi mấy con Dodge, mấy con GMC chở
hàng quân tiếp vụ chạy vù vù dội đèo lượn dốc, đôi khi nghe mìn nổ sau xe còn
chả ngán. Rồi cái thời chở hàng xuyên tỉnh khi cần, phải liều mạng vượt ào qua
mấy cái trạm thuế vụ đến lì mặt. Ối dà ! Cái Honda téo tẹo này chỉ là búng ngón
tay ! Lão rất bực mình khi có mấy cô ả ăn mặc sang trọng, chạy xe đời mới cứ rề
rà trước mặt lão như muốn khoe mẻ hoặc mấy ông anh ra vẻ rối việc vừa chạy xe
làng nhàng vừa nghe điện thoại. Bằng cách nào lão cũng phải vượt qua mặt. Chứ
hăng máu đéo gì, nếu còn hăng lão đã khoái chạy sau mấy ả, kể cả xồn xồn ngắm mấy
cái mông nhìn mấy cái đít ẹo qua ẹo lại, nhỗm lên nhỗm xuống không vui mắt sao.
Hăng gì ! Ờ mà cũng thương cái mèo bếp thật. Khi không, sáng nay, lão cảm thấy
mình ngoan ngoan thế nào ấy. Chậm xe lại gần như dừng hẳn, lão nhìn phía sau rồi
cho xi-nhan quẹo trái, rà rà chạy về hướng quán cà phê quen thuộc.
-Vẫn như cũ hả bác !
-Ừ, vẫn vậy. Cho bác mượn tờ báo nhé !
Lão cố ý kéo dài uốn điệu tiếng nhé rất
nhẹ. Cô bé phục vụ chậm rãi quay vào trong, mặt chẳng có chút biểu hiện cảm xúc
gì. Cũng không có tiếng thưa tiếng dạ, chứ chưa nói gì nghe được tiếng cười lí nhí
dễ thương như thường ngày. Hơi chột dạ, nhưng lão không để tâm làm chi.
Vừa lật trang báo, lão nghe lỗ mũi hăng hắc
mùi nước hoa, vừa có tiếng phụ nữ bên tai lão:
-Anh biết gì chưa ?
-Biết gì?
Cô chủ quán, tuy thuộc lứa xồn xồn đang
thời hồi xuân, gọi cô cho dễ cảm tình, kéo chiếc ghế từ bàn sau lên ngồi xuống
cạnh lão. Cô ta thở thật dài, đưa tay vuốt ngực nói như bị ngộp tim:
-Thằng Tú chết rồi !
-Tú ? Tú nào ta ? Lão có vẻ bình tĩnh.
-Thì thằng Tú giữ xe đó !
-Grab ? Cậu Grab ?!
Giọng chợt gấp gáp, cảm thấy hơi thở bị
ngưng nghẹt.
-Tông xe, chiều tối ngày kia anh à.
-Thứ Sáu hả ?
-Dạ, xui xẻo tội nghiệp. Cũng vì miếng ăn
cả. Nghe nói đón nhầm khách ở thổ địa của một hãng xe khác, bị rượt đánh. Dọt
nhanh để thoát thân, không may một chiếc xe ben chở cát chạy ngược...
Tai lão đang ù dần, mất hẳn tiếng cô chủ
đang kể lể dài dòng về cuộc hành trình mưu sinh oanh liệt ngọt ngào và cay đắng
tủi nhục của cậu em họ hàng bên chồng. Đâm mắt vào gốc cây bằng lăng đối diện,
một chiếc ghế nhỏ dần nhỏ dần rồi teo hút đâu không còn thấy nữa. Bây giờ, lão
mới nhận ra, không gian cà phê sáng hôm nay có gì đó thiếu vắng. Cái linh cảm
hôm nọ thật sự hiện về bấu xé lão. Đã từ bấy lâu, cõi xúc cảm trong lão gần như
trơ hóa, đang gỉ sét dần. Nay nó chợt chuyển động khi một cánh chim vô hình từ
đâu bay xẹt qua mắt mổ vào tim lão vài cái rồi xa mất.
Con
người ta thật là kì quặc ? Hay cuộc sống kì quặc ? “Ta chạy vòng vòng. Ta chạy mòn chân. Nào hay đời cạn...” “vòng
vòng” để làm gì, để về đâu hở ông Nguyễn Tất Nhiên ? Đâu chỉ để tìm “người từ trăm năm” ? Trăm năm là một giới
hạn thực tại. Trăm năm cũng là cơ duyên tiền kiếp. A, thì ra ta vòng vòng tìm
mình đang thất lạc ? Nghịch lý là chính lão tưởng tìm thấy mình thật sự. Bởi lão dễ chấp
nhận sự giới hạn tầm thường của bản năng. Lão cảm nhận mình yếu đuối đến cùng tận,
nhìn mấy ngón tay mình vo vê ly cà phê đã cạn như biểu lộ sự mơn trớn vô hồn. Ý
thức chạy mòn chân xô lão va đập vào
tốc độ của Cậu Grab. Lão rùng mình, sợ hãi những quãng đừơng đã qua. Dù cuộc sống
của lão bây giờ dư đủ, thoải mái sáng cà phê, chiều thích thì lai rai thong thả
vài lon, chán thì đi thăm thú đâu đó và vân vân...Thế mà cái ý nghĩ đời cạn khiến lão thấy cạn thiệt. Cạn vốn,
một cái vốn mà ta thường ngộ nhận bằng hiện vật. Sự khốn nạn của Cậu Grab do
thiếu vốn này, cậu đành thế thân chịu nạn. Còn lão, vẫn trống rỗng loay hoay mòn chân trong cái vòng
vòng này.
Lão nghĩ cái chết của Cậu Grab có liên
quan đến lão. Sau khi chở lão ra bến xe về Cậu Grab đã gặp nạn. Nhưng lão chưa
biết phải làm gì để ray rứt ấy bớt xót xa. Một nén nhang cũng đã muộn. Một lời
cầu chỉ như tự xoa dịu mình. Thôi, cứ để hồn cậu ta tự do thoát mọi ràng buộc hữu
hình mà du viễn thỏa thích muôn nơi.
Lão ngớ ngẩn vội liếm chút cà
phê còn đọng trên miệng ly. Ngước lên trời, góc
mái bạt của quán cà phê
cắt xéo một mảng mây trắng mỏng như bông gòn, mờ mờ lộ thoáng con mắt của
chú hề Bip(*) nhìn xéo lão .
Cai Lậy
11/11/2017
SatrungKim
----------------------------------------------------------------------
(*) Chú hề Bip, hóa thân của thiên tài kịch câm Marcel
Marceau. Một nhân vật dễ xúc động, dễ tổn thương và luôn gặp nhiều
tai nạn với những gì dù nhỏ nhất. Nhưng biết chịu đựng bất hạnh
và vẫn luôn luôn yêu đời.
Ông viết: “Bip là người hùng lãng mạn trong thời đại
chúng ta. Bip không chỉ nhìn hướng về thiên đường, mà còn vào tận
trong Trái tim con người”. (theo Wikipedia)
thằng Khệch
Truyện ngắn
GÓC
XÉO CÀ PHÊ SÁNG
(2)
2- THẰNG KHỆCH
Như thông lệ,
dưới gốc bằng lăng kề chỗ ngồi thường ngày của Cậu grab, luôn có một chiếc ca
nước trà đá khoảng nửa lít và một chiếc ly thủy tinh có in hoa. Thằng Khệch ghé
qua rót ra một ly và làm một hơi hết sạch. Điều đáng nói, dù là có khách đang ngồi,
nó lần lượt đi từ bàn này qua bàn nọ bưng từng ly trà đá lên uống sạch, hành động
rất bình thản. Khách hơi ngớ người nhưng chẳng ai buồn nói gì. Chỉ có Cậu grab thường
nạt lớn:
-Này, không
được! Cấm nghe !
Trừ phi thằng
Khệch chưa cầm ly nước, nó sẽ di chuyển qua bàn khác. Còn lỡ đã cầm, nó từ từ nốc
hết ly, lấy tay quệt ngang miệng và quay nhìn Cậu grab như muốn nói: dạ! Dạ!
Sau này, chịu không nổi, Cậu grab đi tới chỉ vào mặt thằng Khệch: không được,
nhớ chưa ? Ra ngoài kia! Cậu grab chỉ tay về phía cây bằng lăng. Thằng Khệch sợ
sệt, vội đi thẳng mà không dám ghé bàn nào nữa. Nếu ai là khách quen như lão,
hành động thường ngày ấy của thằng Khệch
có khi là một đặc trưng của quán. Nói điều này vì quán vẫn đông khách. Phiền
cho chủ quán hoặc phục vụ là cứ phải xin lỗi khách luôn.
-Em cũng
không rõ lai lịch nó nữa. Chỉ biết nhà nó ở hẻm kế bên này.
Lão nhìn
theo hướng tay của cô chủ quán. Hỏi tiếp:
-Nó bị gì?
-Nghe nói
nó là con trai của một ông già y sĩ bộ đội và mẹ nó là y tá. Nó là út, hai đứa
đầu là gái. À, hình như nó bị kinh phong từ nhỏ. Tay nó, anh để ý xem, không
khi nào buông thẳng, luôn co lên ngực và run run. Có người nói do ba nó bị nhiễm
độc gì đó từ thời chiến tranh, chẳng biết đúng không.
-Thấy nó hiền mà.
-Chưa bao giờ thấy nó lên cơn quá độ. Mọi
người quanh đây ai cũng thương, tội nghiệp! Không còn trẻ đâu, gần bốn mươi rồi
đó.
-Chiều có tới đây không ?
-Buổi sáng thôi. Nó đi một vòng ngang đây
tới chùa, quay lại ngang đây rồi về nhà uống thuốc, rồi...không biết nữa. Ngày
nào em cũng dành cho nó một ca bự trà đá, vậy mà nó thích uống của khách mới chết
chứ ! Người nó như luôn thiếu nước.
Từ ngày không còn Cậu grab, lão đã chuyển
chỗ ngồi vào trước quầy tính tiền, gần nơi cô chủ đứng pha chế. Rỗi rãi, khi đã
ít khách cô chủ quán hay ghé xuống bàn lão ngồi tán gẫu chơi.
-Thằng Khệch bây giờ bực mình lắm. Nó
không sợ thằng Tánh. Đó anh xem kìa, nó tỉnh rụi. Thay ly khác đi con, Tánh!
Tánh là tên cậu thanh niên mới vào làm.
Đang là sinh viên, tranh thủ vừa học vừa làm ca kiếm thêm chút trang trải.
Ngoài giắt giữ xe, cậu ta còn phụ bưng bê, lau dọn bàn, học cô chủ pha chế. Lão
đã một lần chuyện trò với cậu ta, nhưng có lẽ vì ngại không dám ngồi lâu, thường
đến ngồi ở cửa ra vào quán. Đôi lần lão thấy Tánh la nạt thằng Khệch, nhưng vô
hiệu. Thế là đành nhăn nhó mang lý nước khác ra đổi cho khách và không quên một
lời xin lỗi.
-Anh ngồi chơi nhe, có khách vào.
Cô chủ quán vội quay vào trong quầy. Lão
nhìn ra ngoài bắt gặp thằng Khệch đang lấy tay quệt ngang miệng, một dòng nước
nhỏ chảy ra từ mép miệng lệch môi. Đúng ra giờ này, gần trưa rồi, nó phải về
nhà uống thuốc theo cữ, sao còn rề rà ở đây. Hình như chưa đã khát thì phải, nó
bước tới đứng ở lối ra vào giữa hai chiếc xe máy, mặt quay vào trong quán. Khó
xác định ánh mắt nó hướng về đâu. Khuôn mặt như bị nạo vét bởi cặp mắt khá sâu,
nhô lên cặp lông mày nhợt và thưa gần như trụi lông. Trán nó quá ngắn, bị dẹp
lên phía trên khiến đỉnh đầu đụn lên cao; với đám tóc lún phún càng thấy rõ
phía sau đầu thẳng dẹp tạo cho cái đầu nó như một ngọn núi nhọn. Rõ ràng nhìn
nó ai cũng biết có sự bất thường, dù nó luôn ăn mặc bình thường với cái quần sọoc,
áo sơ mi ngắn tay, hoặc áo thun. Và ngày nào cũng thay đổi y phục sạch sẽ.
Chưa bao giờ lão được nghe tiếng nói nào
từ miệng thằng Khệch phát ra ngoài âm thanh khò khè khi nó thở, có lẽ vì thế
người ta gọi nó là Khệch chứ chẳng ai biết tên khai sinh nó là gì. Nó luôn cười
với cái môi méo, hàm dưới chìa ra bộ răng lôm côm, có vài cái đen gỉ. Mấy lần Cậu
grab giơ nắm tay dọa đánh, thằng Khệch chỉ hơi nghiêng người và cười, mắt nháy
nháy. Nhu cầu của nó chỉ là “uống”. Nó luôn cần uống bởi dường như nước từ miệng
xuống bụng bốc hơi nhanh bay mất. Cô chủ có lý, nó luôn thiếu nước. Thằng Khệch
có suy nghĩ không nhỉ? Nếu không ông Descartes buồn chết được (!).
Lão đang liu riu ghi nhớ hình ảnh của thằng
Khệch thì giật mình vì tiếng “xoảng” của thủy tinh vỡ. “Đồ chó má ! Đù má cút !” kèm theo là tiếng
xô đẩy bàn ghế, lại tiếng thủy tinh va đập hòa trong những tiếng đấm đá thậm thụi.
Khách từ trong quát vụt chạy ra, có mấy tiếng la :
-Đừng, đừng đánh nó. Nó mất trí mà!.
Lão vừa đứng dậy. Tiếng xe đổ rầm. Bước
nhanh ra ngoài, người ta bao quanh lại nhưng không ai dám nhảy vào can. Chỉ thấy
một cô gái ra sức ôm ngăn một chàng trai đang hung hăng dấn tới. Một thanh niên
khác vừa chỉ tay vào thằng Khệch đang nằm vắt trên chiếc xe bị ngã, hắn ta đạp vào
bụng Khệch mấy cái. Mặt nó đầy máu. Thằng Khệch đau đớn ú ớ, bọt máu sủi lên
khóe miệng. Có lẽ thấy người đông, hai thanh niên, ông nào cũng xăm trỗ đầy cổ
và tay, cùng cô gái trẻ lên chiếc xe máy phân khối lớn, rú ga dọt nhanh. Hai ống
bô phụt ra hai đám khói dài như biểu thị sự đắc thắng. Cách nằm rạp trên xe
phân khối lớn có vẻ thể hiện tính anh hùng thời đại ghê. Lúc này, một cậu thanh
niên và hai người đàn ông vội đến xốc bế thằng Khệch lên.
-Cấp cứu ! Kêu xe cấp cứu!
**
Lão đến quán khá sớm như thường lệ. Chật
vật lắm lão mới chen được chiếc xe máy vào gần gốc cây bằng lăng, phía nhà bán
tạp hóa bên cạnh quán cà phê. Khách hôm nay đông thật. Chỗ lão thường ngồi hai
người phụ nữ đã chiếm.
-Anh ngồi đỡ đâu đó đi. Tánh ơi, lấy ghế
cho bác.
-Thôi được rồi.
Lão khoát tay rồi bước trở ra. Đi về hướng
cửa chùa, gần cái sạp của bà Sáu.
-Xin lỗi, có ai ngồi không?
-Dạ, bác cứ tự nhiên.
Bàn này, lão thường thấy chỉ có một người
đàn ông khoảng trung niên ngồi. Cũng là khách thường ngày của quán. Họ nhận ra
nhau dù chưa hề hỏi han nhau. Cậu ta, gọi vậy cho nó trẻ, đang chăm chú đọc tin
hoặc là chơi game, lên “phây” gì đó với cái di động. Chợt bà Sáu xoay người lại
nói với lão:
-Tội nghiệp thằng nhỏ, ngơ ngáo chẳng biết
gì. Mà, cái bọn ăn mặc sang trọng đó, trời đánh thiệt a. Chắc chắn tụi nó là
con nhà có máu mặt mới hách dịch dzậy!
Nói xong bà Sáu thở dài ngao ngán khiến
cho lớp thịt thặng dư trên người bà rung rung. Tuy vậy, đôi mắt của bà đen
trong toát lên ánh nhìn nhân ái. Lão từng thấy bà ôm đầu thằng Khệch xoa xoa,
cười với nó, nói nói gì với nó khiến nó cười theo.
-Chị Sáu, thằng Khệch sao rồi ? Lão thừa
cơ hỏi chuyện.
-Chấn thương não. Đang nằm phòng mổ.
-Nặng thế à !
-Trời ơi, đã bị kinh phong lại bị đánh
toác đầu nữa thì...
-Biết đâu nhờ thế mà nó tĩnh.
Người khách mắt vẫn chăm chú cái di động vội buột lời.
-Biết đâu nhờ thế mà nó tĩnh.
Người khách mắt vẫn chăm chú cái di động vội buột lời.
Bà Sáu thở dài bỏ lửng câu nói. Lão cũng
im lặng. Một khoảng trống tê người len theo cơn gió ban mai tỏa ra trong lão. Ờ, biết đâu được ! Lão chợt nhớ một nhân vật của nhà văn trào phúng Azit Nexin, trong lòng thầm cầu cho sự đau đớn của thằng Khệch linh thiêng hóa lành. Bởi có những điều không tưởng đã thành sự thực. Giụt điếu thuốc xuống đất, lão giậm chân lên một cách vô thức. Bà Sáu ì ạch cố
đứng dậy, lấy một cây nhang thắp lên và gắn ở kẽ gỗ của góc sạp. Lão định mở miệng
hỏi, nhưng nghĩ sao lại thôi. Chắc là bà ta cầu khách mua ? Mà ngày mai cuối
tháng rồi, sẽ tấp nập khách cúng chùa thôi mà. Bà Sáu quay lại ghế ngồi rồi
nói:
-Ôi... cái thời với thế, chán gì đâu! Điên mà cũng chả yên !
Câu than thở có hơi hài của bà Sáu vặn xoay con mắt
lão về phía cây bằng lăng đầu kia. Một chiếc lá chao bay giữa vạt nắng mai
ươm vàng. Chập chờn trong lão một ý nghĩ buồn. Rất buồn, về một sự mỏng manh tồn tại. Vô thức và phi lý chạm nhau xảy ra nghịch lý. Chấp nhận khiến ý thức kháng cự mâu thuẩn. Giới hạn giữa ta với cuộc sống là khoảng trống xa lạ. Ai cũng đôi lần muốn chết cho khỏe, nhưng lại sợ chết. Thằng Khệch dù thiểu năng trí tuệ, nhưng vẫn biết sợ chết bởi nó biết đớn đau. Một chút thương cảm chạy theo ngụm cà phê tê rần trong lão, dường như lão tự thấy thương mình.
Lão nhìn lên trời, góc mái bạt của quán
cà phê che ngang một mảng mây trắng mỏng non uốn lượn như một bàn tay vẫy.
Cai Lậy, 17/11/2017
Satrungkim
cô chủ quán
Truyện ngắn
GÓC
XÉO CÀ PHÊ SÁNG (3)
3- CÔ CHỦ QUÁN
Lão thích tới quán cà phê này vì cà phê ở
đây sạch. Thật sự sạch. Không pha trộn thêm gì cái thứ bột ở chợ Kim Biên. Mỗi
lần cô chủ bỏ hạt cà phê vào máy xay nghe như tiếng suối róc rách, mùi núi rừng
phảng phất, hương của đất tỏa ra khắp quán. Những hạt nhẹ bay vướng vào mắt làm
cho đôi mắt nâu thêm, một màu nâu sắc lẻm pha những tia vàng phát ra ánh nhìn
huyền bí như mắt mèo. Với nụ cười khá uể oải, một chút gượng ép xoáy trên hai
lúm đồng tiền một nét duyên mơ hồ lộ ra hàm răng trắng đều mà lão nghĩ phải có
sự can thiệp của nha sĩ. Nếu không có lớp phấn mịn, chắc chắn lớp da mặt ấy khó
giấu hết những vết thời gian in lằn. Không biết lớp sần sùi, những đường nhăn ấy
chứa cái gì: sự tần tảo, đau khổ, từng trải, mê đắm...?
-...Anh biết đó, hồi ấy em có biệt danh
là “Beo Cái”.
-Ghê nhỉ !
-Đùng một phát ! Bỏ học. Mười bốn tuổi phải
nhảy tàu lửa, trốn vé, lao theo mấy bao mì lát phụ mẹ đi buôn rồi. Thời đó, như
anh biết, đem được nông sản ra khỏi địa phương là một vấn đề. Trốn chui trốn nhủi
như chuột. Chỉ dám đi tàu đêm. Khi nào cũng có tiền trạm thăm dò trước. Cộ bò
thường phi như ngựa, lỡ gặp mấy họng súng chặn lại vẫn quất đít bò phang tới
luôn. Ga thuộc xã khác, dù vậy hàng hóa phải đem giấu vào bụi chờ tàu tới vì ở
đâu cũng đầy “ông kẹ”. Lên tàu lại là một vấn đề, nhưng dễ giải quyết hơn. Có
khi phải nhảy trốn từ mái toa này qua mái toa nọ, thanh ngang những cầu sắt thời
Pháp thuộc như lưỡi kiếm một ác thần vụt tới tấp, cố ép mình nằm rạp xuống hết
cỡ, tưởng cái mặt bị cắt phẳng, thẩn thể mỏng lép như miếng giấy chao đảo vào địa
ngục vô diện. Cứ thế, mười sáu tuổi đã mang danh “Beo Cái”, nhanh và hung tợn
dù tuổi nhỏ nhất băng “Beo”. Lúc này mẹ ở nhà lo nương rẫy. Bé An còn đi học.
Ba vừa mất vì chứng sốt rét ác tính, bị nhiễm khi ở trại cải tạo, tái phát khi
về quê vợ phá rừng làm rẫy. Dân công chức bàn giấy mà, chịu sao nổi gánh đá vác
cây. Nhảy tàu thêm một năm nữa thì em đổi nghề.
Thú thật, sự trở chứng của tuổi dậy thì
đi qua em sao nó như gió thoảng. Chả biết làm thẹn làm duyên làm dáng cái mốc
xì gì cả. Mộng mơ là thứ xa xỉ và vô bổ. Chỉ nghĩ tới: tiền và tiền, là vì sợ
quá sợ: đói và đói. Có động lòng cảm xúc, não lại quy ra những con số hoặc đôi
khi chỉ tự vệ, chung quy là quần quật bảo vệ miếng ăn. Nước mắt có chảy ra cùng
là lúc những lời chửi rủa mắng nhiếc uất ức tuôn xả. Khi gặp Thìn em cũng chả
chút cảm xúc gì. Một tay lái xe từ chiến trường K về. Nhờ cái mác bộ đội ấy, được
vào lái xe hàng cho một công ty nhà nước ở Saigon, lại ranh mảnh khôn khéo nên
mấy trạm kiểm soát ít khi làm khó dễ anh ta. Em ăn theo đi buôn đường dài. Đa
phần là mỹ phẩm Thái Lan nhập lậu. Dong duỗi Nam Bắc em giàu lên không ngờ. Và
cũng không ngờ mình có chữa lúc nào chẳng hay. Đấy, con bé Tâm thường ẳm con nó
lên quán này đấy. Thuê phòng trọ ở Saigon, một mình vào Từ Dũ đẻ. Ba nó, gã
Thìn ấy, vất cho đống áo quần trẻ sơ sinh rồi mất tăm. Nghe nói vượt biên thì
phải. Sau này con An, em gái em qua Mỹ có dò la tin tức nhưng vẫn biệt tăm. Ối
dà ! tới đâu rồi ha ? À, mẹ em chẳng biết gì ráo cho đến khi con Tâm gần một tuổi
em bồng về quê. Ngỡ ngàng, thở than rồi cũng huề. Cái chuyện con không cha, xóm
làng quê em bắt đầu dần quen. Dỡ dang như em thì có mà như nấm sau cơn mưa !
Thoát nghèo, không phải. Thoát chén khoai củ mì nghẹn họng, muốn thấy được hột
cơm thì phải nối đuôi nhau ra khỏi làng, bươn chải đường dài đường ngắn, lợi dụng
nhau mà kiếm sống. Phụ nữ...ôi, Thượng đế năm bờ oăn!
Có chút vốn, em làm lại cái nhà mới khang
trang hơn. Lấy chút ít bánh kẹo, xà phòng, đường muối, tạp nhạp thứ tiêu dùng từ
chợ huyện về cho mẹ bán. Lời lãi chả bao, nhưng cốt để mẹ ở nhà. Rẫy nương tới
vụ thì thuê người làm. Mua cho con An chiếc xe đạp về huyện học cấp 3. Lúc này
cuộc sống có phần dễ thở, một thứ dễ thở như gió vù qua lỗ mọt của tường sắt gỉ.
Cộ bò chất đầy nông sản ra ga ít cần tiền trạm. Sân ga bớt hoạt náo hơn, có vẻ
thưa dần con buôn lên xuống. Đùng một phát ! Cả làng quê em bỗng chộn rộn khi ở
huyện mọc lên nhà máy đường. Thế là, theo chủ trương chuyển đổi cây trồng, nhà
nhà cải tạo đất canh tác từ mì qua mía. Ở làng mọc lên hai cái che mía. Một cái
do bò kéo, một cái chạy bằng máy nổ của Hợp tác Xã. Em nhanh chóng thu mua đường
nước, rồi thu mua mía vườn móc nối với nhân viên nhà máy đường kiếm chênh lệch.
Được vài mùa thì teo.
-Teo là thế nào?
-Thì mất mùa. Khô hạn, thất thu. Nhà máy
kêu than, tạm đóng cửa. Em, máu “Beo Cái” tham lam bung tiền mua vườn từ khi
người ta mới xuống giống. Lỗ sặc sừ. Bỏ nghề, bỏ làng theo bà chị họ ra tỉnh mở
quán cà phê.
Thật ra định nghe lời bà chị họ vào làm một
công ty dệt nhà nước. Chồng chị ấy là trưởng phòng kinh doanh thì phải, em nhớ
mang máng thế, bà chị là văn thư. Được cấp một căn hộ ở khu tập thể nhà máy.
Khu này ở trung tâm thành phố tỉnh. Hằng ngày có xe đưa rước ra nhà máy ở ngoại
ô và chiều đưa về. Căn hộ gia đình chị ở căn bìa, phía ngoài là khoảng trống
khá rộng kéo dài ra đường lớn. Bà chị họ khi ở cữ đứa đầu, đã tận dụng thời
gian rỗi dựng lên mấy tấm tôn bán đồ lặt vặt. Ngõ hẻm này thông thương giữa hai
đường phố lớn, nên người qua lại khá đông. Ý nghĩ bán nước giải khát nhảy tưng
trong đầu em, tuy cái máu bươn chải có phần héo hon trong lòng sau vụ mía,
nhưng chữ tiền làm em lại háo hức. Được anh chị họ đồng ý tùy nghi sử dụng, em
bòn hết vốn liếng còn sót lại đầu tư vào cái quán. Nói thiệt với ông anh chứ,
biết mẹ gì đâu cà với phê. Thời gian làm quán, mẫu mã thiết kế, bàn ghế cũng
như thợ thầy do ông anh họ lo hết, em lao vào mấy quán cà phê khắp thành phố để
học lõm. Sáng quán này, chiều quán nọ, tối quán kia riết ghiền cà phê luôn. Mà,
phải rồi, cà phê có chất thông minh đó anh.
Lão phì cười đến phun nước miếng. Cô chủ
dễ thương như một đứa trẻ.
-Thiệt mà. Em thấy mình biết động não
hơn. Có khi ngồi quán nhìn cái này cái nọ mà suy nghĩ về cuộc đời nè. Mấy người
ngồi trước ly cà phê thấy họ vô...vô gì ta, à vô tư. Em nghe nói mấy ông thi sĩ
ghiền cà phê lắm, phải không anh ?
-Không biết nữa. Cũng có thể họ ghiền một
cái gì đó.
-À ha ? Để em kể tiếp. Thời gian đó, con
An ra tỉnh học Cao Đẳng Sư Phạm. Phải thuê nhà cho hai chị em. Mẹ muốn giữ con
Tâm lại để mẹ bớt cô quạnh. Em đồng ý. Căn hộ gia đình bà chị họ có một gác lững
nhưng cũng rất bất tiện chuyện sinh hoạt vợ chồng người ta. Vài tháng sau, con
An biệt tích. Thật ra chuyện nó vượt biên hai chị em đã suy tính rất kỹ, không
cho ai biết kể cả mẹ. Trước đêm nó theo thằng bồ ở xóm chài đi lưới, hai chị em
ôm nhau khóc như chưa từng được khóc. Vừa lo sợ vừa hy vọng. Chưa bao giờ em
thao thức suy nghĩ về cảnh đời cay đắng thế. Về thăm quê, mẹ hỏi An sao lâu
không về. Dạ, nó đi thực tập xa lắm mẹ. Dần dà mẹ hồ nghi có chuyện gì. Em cố
lãng tránh. Đùng một phát ! Thư nó từ Mỹ gởi về. Mẹ con ôm nhau khóc sướng chi
lạ ! Mẹ đấm thụi thụi vào lưng em tổ cha bây, tổ cha bây. Hai mẹ con cười vang
trong nước mắt giàn giụa. Có lẽ suốt cuộc đời mình, đây là lần duy nhất em cảm
nhận được sự ấm áp của tình yêu thương thật sự.
Phải, ngay cả bố Khương, không thể gọi
là tình yêu được. Mặc dù Khương đã trung niên, từng là thủ trưởng của chồng chị
họ em. Sau này chuyển qua Hải quan. Gọi bố Khương vì anh chị em ở khu tập thể gọi
vậy. Ông ta là khách thường nhật của quán. Một bữa nọ, ông ấy mang tới một cái
bảng, tầm 50x80, rồi loay hoay treo dưới mái tôn ngoài, giữa trung tâm quán. Từ
đó quán có tên “Cà phê Dệt”. Cha mẹ ơi, tên gì kì cục ! Vậy mà “Cà phê Dệt” lại
đông nườm nượp. Có thể bố Khương còn chút tiếc nuối cơ quan cũ. Cũng có thể vì
ý gì đó, chẳng hiểu. Những buổi đông khách, như Chủ Nhật, em lo không xuể từ
pha chế, tính tiền, bưng bê đủ thứ chuyện đổ mồ hôi, phải nhờ mấy cô công nhân
trẻ phụ việc. Trả thù lao xứng đáng. Ai cũng vui vẻ. Quán cũng là chỗ nhậu đêm
của ông anh họ và bạn bè anh ấy. Một sáng Chủ Nhật nọ, bố Khương bảo em chiều
nghỉ bán. Hôm nay tiệc đưa tiễn. Tuần tới bố chuyển công tác ra cảng tỉnh khác
rồi. Hồi đó bia bọt thuộc loại hiếm, thị trường đa phần là bia lên men. Nhưng
cuộc chia tay đó bố Khương cho bày mỗi bàn mỗi chai rượu ngoại thứ thiệt. Mấy
tay đệ tử dự phòng thêm mấy chai nữa. Đêm ấy bố Khương gục ngay tại bàn khi chỉ
còn vài người kề cà tới khuya. Đệ tử dìu chở vể không chịu, bảo ở lại Cà phê Dệt
mà thôi. Em thật lúng túng. Nhờ ai đó dìu ông ấy lên chiếc ghế bố. Nghe tiếng
ngáy như bô xe ai cũng cười. Sau khi phụ dọn dẹp, mọi người về hết. Không lẽ để
bố Khương một mình ở quán. Bà chị họ ném cho chiếc chiếu và tấm màn hoa rồi khất
khưởng về ngủ. Lấy tấm màn đắp cho bố Khương, trải chiếc chiếu ở gần quầy nằm xuống,
đầu hơi nhưng nhức do mấy ly rượu. Ngủ thiếp lúc nào không hay. Đêm ấy hình như
mơ mình có cánh bay bay thì phải. Đùng một phát! Cánh đập vào ngọn núi. Nghe
đau thốn. Choàng tỉnh dậy nhưng không nhúc nhích nổi. Bố Khương đang đè mạnh
trên mình. Thế là xong. Nằm đơ người chẳng biết muốn khóc hay cười nữa.
Khoảng vài tháng sau, một chiếc Ku-oát
phanh “roét” ngay trước cửa quán. Bố Khương nhảy phóc ra. Một người đàn ông trẻ
khệ nệ ôm một chiếc tivi vào quán. Để trên quầy đi, bố Khương nhìn em nói tiếp,
hàng nội địa Nhật đó. Suốt cả buổi nỉ năn, em vẫn từ chối không theo ông ta ra
tỉnh mới. Nhìn cái tivi em chẳng vui vẻ gì. Thời đó, có tivi dù đen trắng là
oách lắm. Với em, chỉ tổ mệt thêm vì khách đêm thường ngồi nán hết chương
trình.
Ông anh này, em nói giọng Bắc lai tứ
phương tám miền đây anh nghe rõ không ?
-Bắc tổng hợp, quá hay !
-Rõ hiểu là tốt rồi. “Quá hay” là nịnh dẽo,
tính sau. Cao hứng, nhiều khi quay lại cái chửi thề chửi tục ông anh bỏ quá cho
nhe.
-Vậy mới vui, mới thực lòng.
-Em nhớ khoảng tháng tư năm sau. Một ngày
nắng như thiêu. Chiếc Ku-oát lại “roẹt” trước cửa quán. Lần này là một đầu
video, một tivi màu nội địa, một chục băng video. Chẳng bao lâu sau, em sang lại
cho bà chị họ hết. Giã từ Cà phê Dệt, em lên đường theo tiếng gọi...hàng nội địa
Nhật. Chơi bạo giàu nhanh. Hàng điện tử phế thải từ Nhật nhập về cảng có bố
Khương lo. Xe quân vận chở hàng quốc phòng bố Khương cũng lo tuốt. Thế là em
thành tay buôn có hạng trong giới “hàng nội địa”. Phục vụ phân phối một phần miền Bắc. Bố Khương vừa có người tình trẻ
vừa có thu nhập to. Có điều, nghĩ lại cười chết được, từ giới buôn lậu cho tới
quan chức ai cũng tưởng em là con bố Khương. Cứ thế được hơn một năm thì...
-Đùng một phát !
Lão cắt ngang cười kha khả. Cô chủ quán
như bị chặn họng, nguýt lão một cái:
-Anh này! Ờ, được tin mẹ bệnh nặng, em về
quê ngoại.
-Xin lỗi. Mình tưởng...
-Dạ. Bác sĩ huyện nghi ngờ mẹ ung thư. Em
tức tốc xin đưa mẹ vào Chợ Rẫy. Lúc này bé Tâm sắp vào lớp một. Nhanh thật. Thời
gian nuôi mẹ bệnh, nghe lời bàn tính của một bà cô xa ở Biên Hòa. Nào là tương
lai bé Tâm, nào là thành phố dễ thở hơn ở quê. Nhờ dành giụm được kha khá. Em
mua một căn nhà cấp 4 còn dư, hồi đó phường 18 bên kia kìa, đất rẻ lắm. Bên này
còn là khỉ hoang gà gáy, ruộng và hồ
rau muống thôi. Khu nghĩa địa đầu đường này nè, là địa cứ xì ke ma túy, ít ai
dám đi qua đây. Sửa sang nhà lại chút đỉnh, đưa mẹ về, nhờ người bà con ngoài
quê vào phụ chăm sóc. Vài tháng sau mẹ qua đời trong cơn đau đớn. Đưa mẹ về nằm
gần ba ở quê theo ước nguyện. Trở lại thành phố, nhiều đêm nằm quệt nước mắt,
thấy cô đơn đến lạnh người. Ôm siết bé Tâm, chút hơi ấm cuối cùng an ủi. Bán hết
rẫy đất, nhà cửa ở quê. Quyết định lập nghiệp ở đây, thành phố này. Trước khi
vào làm ở xưởng may, em có ra tỉnh cảng nọ tìm bố Khương. Bất phước, ông ấy bị
dính pháp luật đi tù. Ngồi tàu lửa về lại Saigon, qua ga xép cũ, nhìn quê ngoại
trong đêm mờ trăng thấy mình khác lạ. Rất khác lạ. Tàu vùn vụt. Thời gian vùn vụt.
Em vùn vụt bay ngoài không gian mênh mông. Lên cao nhẹ tênh rồi chúi xuống nặng
chơ vơ. Buồn và khóc. Cho tới khi xuống ga vẫn chưa nhận ra mình.
Lão bùi ngùi định nói gì đó, nhưng hơi bối
rối nghe tiếng thở dài. Tiếng thở dài lôi quá khứ tuột ra những hình ảnh được nối
liền nhau bằng những sợi chỉ nhỏ.
-Để em kể tiếp. Vào công xưởng may làm
được gần ba năm. Em nhảy ra ngoài, mua máy may, về quê tìm thợ, thật ra là mấy
đứa bà con gần xa thất học đem vào chỉ dạy cho dần dần thành thợ may chuyên
nghiệp. Vào đúng cái thời hàng may mặc xuất qua Đông Âu đến chóng mặt. Trước
tiên là nhận từ các công ty về gia công. Khi đã thấy ổn định vững vàng, em tìm
đối tác xuất thẳng qua cho họ. Dĩ nhiên em phải mua thêm đất, xây nhà xưởng mới
làm nổi. Đó là thời xã hội như rắn đang lột da, không còn sợ mấy họng súng lăm
le như trước kia nữa. Tuy chưa phải thoải mái lắm, nhưng thông thoáng hơn nhiều.
Bắt đầu các công ty tư nhân mọc lên như nấm. Em cũng theo thời, mở công ty cho
dễ làm ăn.
Năm bé Tâm vừa vào cấp 3, dì nó, con An
từ Mỹ về thăm. Bây giờ là Việt kiều yêu nước rồi! Về thăm quê, quỳ trên mộ ba mẹ
nó quay quắt khóc như mưa như bão. Em dìu nó nức nở nghẹn lời. Nó định bảo lãnh
cho con Tâm qua Mỹ học nhưng em từ chối. Nó đi tao ở với ai. Hay chị cùng cháu
đi luôn. Em tìm cho một đực râu ria mà tựa đời. Khỏi! Đang làm nên ăn ra nghe mầy.
Sau này hẵng hay.
Chẳng có cái sau này nữa khi ông chồng
em đây đi vào đời em. Cũng thuộc dòng hệ đảng viên nòi. Cha là liệt sĩ. Mẹ tái
giá. Thích cầm cờ-lê mõ lết hơn cầm súng. Học trung cấp kỹ thuật, sau được đôn
lên Cao đẳng ngành chế tạo máy gì đó. Ra trường xin vào Nam, được phân về một
công ty ở miền Tây chuyên về máy móc nông nghiệp, sản xuất nông cụ. Gần sáu năm
thì công ty vỡ nợ, giám đốc vào tù cùng kế toán trưởng.
Nghe nói, máy móc gì nhập toàn đồ thải của Trung Quốc về chạy dăm ba bữa lại phải
sửa lui sửa tới hoài, nông dân bực mình la lối. Mất việc. Mất luôn con vợ và đứa
con trai hai tuổi. Chẳng biết nó bồng con theo ai. Về Saigon cầm cái bằng và thẻ
Đảng xin việc, trôi qua vài công ty vì bất mãn do không đúng chuyên môn, vài
nơi khácchỉ nghe hứa với hẹn. Chán, đốt thẻ Đảng, lang thang mấy năm trời với đủ
thứ nghề: xe ôm, sửa xe, phụ xe. Chạy mánh, làm cò đổi ngoại tệ. Vượt biên mấy
lần bất thành. Bắt được mối mấy ông tàu viễn dương, chuyển qua cung cấp ảnh
sex, lịch sex, phim video sex. Tổ chức chiếu phim sex thu tiền, bị đi cải tạo gần
nửa năm. Khi em gặp ổng là cùng làm ở công ty may. Ông ở đó trước em mấy năm,
chuyên chỉnh sửa máy, rồi Trưởng phòng Kỹ thuật. Khi em ra làm riêng ông vẫn
còn làm ở đó. Vì cần kỹ thuật máy, em đã dụ ổng về. Thấy ổng cần cù, đam mê máy
móc lại giỏi tay nghề em mở một cửa hàng bán máy may các loại cho ổng quản lý.
Chủ yếu máy cũ Nhật. Nói thật, giúp ổng chẳng qua vì lợi cho mình thôi chứ tình
cảm thì “trớt quớt”. Nhiều lần ổng có nói bóng nói gió, em nghĩ nói đùa bỏ
ngoài tai. Mà em, hình như chưa bao giờ nghĩ đến yêu đương, chẳng biết tình yêu
nó ra làm sao. Con Tâm mấy bận rù rì được a mẹ, mẹ giờ sắp xế chiều rồi, lỡ mai
này con lấy chồng xa ai lo cho mẹ, cũng cần người thủ thỉ đỡ buồn chứ. Sao được,
mẹ có yêu thương gì ông ấy đâu. Mưa dầm thấm lâu mà mẹ, không tình thì nghĩa
cũng được. Nằm gác tay lên trán nghĩ tủi tủi, sờ sợ cái cảnh lụ khụ nhìn bóng
mình trên vách rồi sẽ lú lẫn... Thế là, cưới.
Em suýt bỏ mạng khi bị hư thai mấy lần.
Bà bác sĩ bảo phải cắt bỏ buồng trứng. Điếc đẻ luôn. Chấm dứt niềm kiêu hãnh ngạo
nghễ của phụ nữ. Từ đó sức khỏe yếu dần. Đi đứng xương cốt muốn nứt rạn. Ngồi
lâu mỏi lưng khủng. Cũng là lúc Đông Âu dội hàng. Em sang bán hết nhà xưởng chỉ
giữ lại cái cửa hiệu kinh doanh máy may thôi. Nay cũng cho vợ chồng con Tâm rồi.
Về khu người Hoa trên này, đây là khu Hoa kiều vượt biên bị trả về, mua hai lô
đất. Một cái ở, cái còn lại cho thuê. Số mình bị trời hành hay sao ấy. Ăn không
ngồi chơi là sinh đủ bệnh. Năm ngoái sang lại quán này bán cho đỡ buồn, thấy khỏe
ra.
-Chồng em ít thấy lên quán.
-Ổng đi suốt ngày. Giờ theo mấy ông bạn
làm cò đất.
-Ổn không ?
-Không hiểu sao em luôn thấy trong mình
có gì đó hụt hẫng, đục khóet thành một góc trống vô hình tự hồi nào. Cảm nhận
như nó đang lớn dần. Một lỗ trống toang hoác như cảm giác khi mất buồng trứng vậy.
-Có lẽ em làm việc quá sức.
Lão nói vậy nhưng không nghĩ vậy. Một câu
nói mà lão dư hiểu chẳng có tác dụng gì ngoài cái lịch sự phải đối đáp. Cái lắc
đầu của cô chủ quán cũng thế.
***
-Vẫn như cũ hả bác !
-Vâng.
-Tưởng anh đi đâu mất tiêu rồi chứ.
-Lâu lâu đi đổi gió thôi mà.
-Chắc đổi luôn quá.
-Sao ?
-Người ta muốn tăng tiền nhà. Ý họ không
muốn cho thuê nữa.
-Hết hợp đồng à ?
-Dạ, chủ cũ hợp đồng ba năm. Hơn tháng nữa
là hết. Chắc thấy em bán được nên chủ nhà muốn lấy lại bán.
-Thời này nó vậy mà.
-Buồn thật.
Buồn thật buồn. Thời gian như một cái chớp
mắt, thế mà hình ảnh chứa trong đồng tử lớp lớp chồng chất. Những vùng không
gian sáng mượt, tối đen hay lờ nhờ gồ ghề những cảm xúc khổ vui không xác định,
bởi cái “động” mà ta cảm nhận đã bị thời gian cắp đi, còn cái “tĩnh” là một hiện
tượng chết từ những nét vẽ thiếu hụt của trí nhớ. Lão không hiểu tuổi già vì
sao dễ bị trơ cảm với hiện tại mà lại dễ động lòng với quá khứ ?
Buồn thật buồn. Nếu nay mai, cho dù cái quán
cà phê này vẫn còn nhưng với phong cách, hình thái khác; có chắc lão sẽ tìm cho
mình một góc như cũ không? Có lẽ không, lão cảm nhận chẳng còn một góc như cũ
khi bóng dáng cũ không còn. Gợi nhớ và một hiện tượng chết. Nhưng có thể để đến
một nơi quán khác, lão khó cưỡng lại ý muốn đi ngang qua con đường này, để buồn
thật buồn.
Bên kia đường căn hộ đang xây ngày một cao
thêm. Lão nhìn chếch lên một góc mái bạt của quán, lấp ló một viền mây mỏng manh, xa tít.
Saigon 28/11/2017
SatrungKim