V. Tử-vi vào Việt-nam
Có hai thuyết nói về khoa Tử-vi truyền vào Việt-nam.
1.- Thuyết thứ nhất
Nói rằng một nhân viên sứ đoàn Đại-việt thời Lý tên Trần Tự Mai đã trộm được
trọn vẹn bộ Tử-vi chính nghĩa và bộ Ngự-giám tử-vi, rồi đem về nước. Nhưng
chính Tự-Mai cũng chỉ nghiên cứu rồi truyền cho con cháu.
Ghi chú: Từ Trần Tự-Mai đến
vua Trần Thái-tông gồm 8 đời. Trần Tự Mai sinh Trần Vỵ Hoàng. Trần Vỵ Hoàng
sinh Trần Tự Quang. Trần Tự Quang sinh Trần Tự Kinh. Trần Tự Kinh sinh Trần Tự
Hấp. Trần Tự Hấp sinh Trần Lý. Trần Lý sinh Trần Thừa. Trần Thừa sinh Trần Liễu,
Trần Cảnh tức vua Thái-Tông nhà Trần.
Nên sau này Hoàng Bính đem Tử-vi cho vua Trần, thì có cuộc tranh luận về Tử-vi
giữa Hoàng Bính với Chiêu Minh vương Trần Quang-Khải và Chiêu-Quốc vương Trần
Ích- Tắc.
2.- Thuyết thứ nhì
Một thuyết khác nói khoa Tử-vi truyền vào Đại-việt từ niên hiệu Nguyên-phong
thứ bảy đời vua Trần Thái-Tông (1257). Người truyền sang Đại-việt là tiến sĩ
Hoàng Bính. Hoàng Bính sinh vào niên hiệu Gia-thái thứ nhì đời Tống Ninh-Tông
(1203), đậu Tiến-sĩ làm Thị độc học sĩ (chức quan đọc sách và giang sách cho
vua nghe) thời Tống Lý-Tông. Năm Bảo-hựu nguyên niên (1253), tiên sinh nhân ở
chức vụ Thị độc học sĩ, nên nghiên cứu, hiểu tường tận các bộ sách Tử-vi
chính nghĩa, Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh, tiên sinh nghiên cứu số Tử vi
của vua, Hoàng-hậu, các vương thần, khanh sĩ, văn võ đại thần, thì thấy số
người cũng sắp táng gia bại sản, hoặc chết thê thảm, hoặc gia đình ly tán.
Lúc đầu tiên sinh cho rằng có cuộc thay đổi ngôi vua trong triều, nhưng sau
xem đến số của các vị trấn thủ đại thần, cũng đều tương tự cả. Tiên sinh cho
rằng đó là vận nước sắp mất. Tiên sinh lại xem số mình và vợ con đều thấy
thân cư Thiên-di, mệnh lập tại Tý, cung Thiên-di ở Ngọ. Tiên sinh mới giải
đoán rằng: Tý là phương Bắc, Ngọ là phương Nam, vậy gia đình mình có số lập
nghiệp ở phương Nam. Lại xem thiên văn, thấy tất cả các tinh hoa đều tụ cả ở
phương Nam, mới bàn với phu nhân rằng:
- Ta xem thiên văn thấy phương Nam sáng rực, tương lai thánh nhân đều xuất hiện
ở đó. Nay quân Thát-đát (Mông-cổ) chiếm gần hết giang sơn rồi, mà triều đình
trên thì vua hôn ám, các quan thì nhũng lạm, lòng dân đã mất, cái vạ vong quốc
không xa cho lắm. Âu là ta cáo quan về hưu, rồi đem tộc thuộc xuống phương
Nam lánh nạn.
Năm 1257, Hoàng Bính đem tộc thuộc hơn ba nghìn người, đến biên giới Hoa-Việt,
xin được vào đất Đại-Việt làm cư dân. Vua Thái-tông nhà Trần sai người lên
tra xét, thấy họ quả thật tình, không có chi giả dối, mới thuận cho Hoàng
Bính lập nghiệp ở vùng Yên bang. Hoàng Bính dâng người con gái út 16 tuổi,
nhan sắc diễm lệ, làu thông thi thư và thuật số, Tử-vi tên Hoàng Chu-Linh.
Vua Trần Thái-Tông thu nhận, phong làm Huệ-Túc phu nhân rất sủng ái.
VI.- Khoa Tử-vi đời Trần
1.- Trường
hợp được trọng dụng
Khoa Tử-vi được triều Trần biết đến trong một dịp đặt biệt: Thái-tử Hoảng bị
bệnh mê man suốt ba ngày rồi mắt trợn ngược, tưởng qua đời. Vua đem thanh Thượng-phương
bảo kiếm và áo Ngự-bào để bên cạnh rồi tuyên chỉ ;
- Nếu tỉnh dậy sẽ ban cho. Ý nói sẽ truyền ngôi. Nhưng Thái-tử mắt vẫn trợn
ngược.
Hoàng hậu, phi tần khóc lóc thảm thiết, chuẩn bị chôn cất, nhân thấy Huệ-Túc
phu nhân văn hay chữ tốt, có ý nhờ viết bài vị. Vì vậy phu nhân biết ngày, giờ,
tháng, năm sinh của Thái-tử. Phu nhân bấm số, rồi tâu:
- Xin Hoàng-hậu đừng lo, Thái-tử chỉ mê man thôi, giờ Sửu ngày mai sẽ tỉnh dậy.
Vua và Hoàng-hậu tin tưởng và hỏi tại sao phu nhân biết? Phu nhân tâu:
- Thần tính số Tử-vi của Thái-tử thấy Đồng, Âm thủ mệnh tại Tý. Cung phúc tại
Dần có Cự, Nhật. Tử-vi kinh nói rằng:
“ Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ,
Do ư phúc trạch cát hung”.
Nghĩa là : Giàu, sống lâu, làm lớn, tiếng tăm, chết non,
đau thương, khổ, do cung phúc tốt hay xấu. Đây cung Phúc của Thái-tử có Cự,
Nhật tại Dần, lại có Tả, Hữu, Xương, Khúc hợp chiếu, thì căn cơ là người thọ
lắm. Mệnh lại được Đồng, Âm tại Tý... thế thì Thái tử không chết non, sau còn
trở thành vị minh quân anh hùng, tạo sự nghiệp rạng rỡ cho họ Đông-a và cho
nhà Đại-Việt nữa. Hiện Thái-tử bị hạn Tang, Hổ, Kiếp, Hình thì đau yếu nặng
đó thôi.
Vua và Hoàng-hậu còn phân vân chờ đến giờ Sửu hôm sau, thì Thái-tử tỉnh dần,
rồi khỏi hẳn. Sau là vua Trần Thánh-tông, một vị vua anh hùng trong lịch sử Đại-Việt.
Nhân đó vua Thái-tông mới hỏi lý do tại sao phu nhân biết, phu nhân mới trình
bày khoa Tử-vi. Vua Thái-tông triệu Hoàng Bính vào cung, tiên sinh dâng lên
hai bộ sách Tử vi chính nghĩa và Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh. Vua Thái
tông và hoàng tộc nhà Trần lại đua nhau nghiên cứu Tử-vi, và dùng như một
nguyên tắc để cử người giúp nước.
2.- Một sự kiện sáng tỏ nhờ Tử-vi
Qua những lá số được Huệ-Túc phu nhân và vương hầu đời Trần chấm còn để lại,
ngày nay chúng ta thấy được nhiều khía cạnh lịch sử. Như hiện trong văn học sử,
người ta không biết vị thiền sư đắc đạo Tuệ-Trung thượng sĩ đời Trần, bản sư
của Trần Nhân-tông là Trần Quốc Tung, anh ruột Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn,
tước phong Hưng-Ninh vương hay là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, con thứ
nhì của Hưng Đạo vương?
Căn cứ vào lá số của Huệ-Túc phu nhân, người sống đồng thời với Hưng Ninh
vương, lại là thím của ngài, là sư phụ của ngài về khoa Tử-vi, thì những gì
do phu nhân viết về ngài phải đúng. Hơn nữa phu nhân lại là người tích cực tiến
cử Hưng Đạo Vương giữ chức vụ Tiết-chế binh mã, tức là Tổng tư lệnh quân đội,
thì chắc chắn tình nghĩa thím cháu, vua tôi, thầy trò, phu nhân viết về gia
đình Hưng Ninh Vương, Hưng Đạo vương không sai. Phu nhân chấm số cho
Hưng-Ninh vương có phê như sau:
"... Kinh vân Tử, Tham, Mão Dậu đa vi thoát tục chi tăng. Ngô kim nhật
kiến Tuệ Trung chi số: Tử, Tham ư Dậu ngộ Quyền, Đào, tuấn nhã chi lang. Tả,
Hữu hợp chiếu thị tất đa tài, đa năng. Đãn hiềm Tử, Tham cư Dậu ngộ Không, Kî
tất thoát tục vi tăng”. Nghĩa là sách Tử-vi kinh nói rằng: người mệnh lập tại
Dậu hay Mão, mà có Tử-vi, Tham lang thủ mệnh đa số là người thoát tục đi tu.
Nay ta xem số của Tuệ Trung thì thấy mệnh lập tại Dậu, Tử-vi, Tham-lang thủ mệnh,
còn gặp Đào-hoa, Hóa-quyền thì là người đẹp đẽ. Được Tả, Hữu hợp chiếu thì là
người đa tài, đa năng. Nhưng tiếc rằng cái số và mệnh lập tại Dậu, Tử-vi,
Tham-lang thủ mệnh,gặp Thiên-không, Hóa-kỵ thì thế nào cũng đi tu."
Từ sự kiện trên ta tìm được Tuệ Trung thượng sĩ là Hưng-Ninh vương Trần Quốc
Tung, chứ không phải là Trần Quốc Tảng.
3.- Phá cách, trợ cách
Qua các tài liệu còn lại, thì khoa Tử-vi đời Trần có một sắc thái rất đặc biệt
hơn ở Trung-quốc, đó là Phá cách
và Trợ cách. Câu chuyện Đoàn Nhữ
Hài là một bằng cớ. Nếu Tống Thái-tổ biết Trịnh Ân bị nạn mà cứu không được,
thì vua Trần Nhân-Tông biết Đoàn Nhữ Hài bị nạn mà cứu thoát. Câu chuyện như
sau:
Đoàn Nhữ Hài là học trò trường Quốc-tử giám ở Thăng-long. Năm 20 tuổi, Hài
chuẩn bị để thi Thái-học sinh (tiến sĩ), muốn được thi Thái học sinh thì Hài
phải qua một kỳ khảo hạch của trường trước, nếu thấy khá thì mới được cử đi
thi. Một hôm ra chùa Diên hựu (chùa Một-cột) chơi, thấy vị tăng ngồi nhìn trời,
Hài hỏi:
- Bạch hòa thượng, tiểu sinh nghe rằng người tu hành có thể biết được vận số
sau này sẽ ra sao, có đúng không?
Hòa thượng hỏi:
- Tiên sinh muốn biết điều gì?
- Tiểu sinh muốn biết mai sau hoạn lộ ra sao. Tiểu sinh mong sư phụ chỉ giáo
cho tương lai.
Hòa thượng hỏi ngày, giờ, tháng, năm sinh của Hài rồi nói:
- Số của tiên sinh là số tá cửu trùng ư kim điện, nghĩa là số phò tá vua ở
sân rồng, tức là số làm tới tể tướng. Mệnh lập tại Mùi, Tả, Hữu thủ mệnh là
người đa tài, đa năng. Tử-vi kinh nói, Tả-phụ, Hữu-bật bình tính khắc khoan,
khắc hậu nên tính tình từ tốn, hành sự cẩn trọng. Cái cách Nhật tại Mão, Nguyệt
tại Hợi chiếu là cách Nhật, nguyệt tịnh minh, nên thì sớm gặp minh quân.
Nhưng tiên sinh lại có một cách rất xấu Đào-hoa, Hồng loan cư nô, lại gặp
Hình, thì tất thế nào cũng vì đàn bà mà tan nát sự nghiệp, đến phải vong mạng.
Đáng tiếc, đáng tiếc.
Hài mừng lắm trở về lo học hành, tháng sau trong kỳ thi khảo hạch của trường
Quốc-tử giám, Hài bị trượt vì văn ngông nghênh, kênh kiệu quá. Hài giận lắm,
tìm vị hòa thượng hỏi:
- Hôm trước đại sư đoán rằng sau này tôi sẽ làm Tể-tướng, thế sao tôi thi trượt?
Không đậu thì làm sao thi Thái-học sinh được? Không đậu Thái-học sinh thì sao
có thể làm Tể-tướng?
Vị Hòa-thượng cười đáp:
- Từ xưa đến giờ có biết bao nhiêu vị Tể-tướng mà không đậu đại khoa? Bần
tăng đoán tiên sinh làm Tể-tướng, chứ có đoán tiên sinh thi đậu đâu? Này năm
nay tiểu hạn tiên sinh nhập cung Dậu được Thái-dương miếu địa, Hóa-khoa từ
Mão chiếu sang thì thanh vân đắc lộ gặp được thiên-nhan. Nhưng đại hạn đóng ở
cung Tỵ. Thiên-mã gặp Đà-la tức là ngựa què. Ngựa đã què lại còn đi đến cung
Dậu gặp Tuần thì ngựa bị chặt cụt chân. Vậy khi nào tiên sinh gặp ngưạ cắn hoặc
đá là lúc gặp vua, nhưng tiên sinh nhớ một điều:
Khi được gặp vua, nếu hoàng-thượng ban thưởng cho bao nhiêu vàng bạc phải nộp
cho lão tăng một nữa. Hài mừng lắm, về nhà, đúng ngày mà hòa thượng đoán gặp
vua, không thấy linh nghiệm. Hài tìm đến chùa Diên-hựu để hỏi tội hòa-thượng.
Nhưng trên đường đi, Hài bị một người cỡi ngựa **ng phải, té lăn vào bụi cỏ.
Hài túm lấy dây cương hạch tội:
- Nhà ngươi đi đâu mà có mắt như mù **ng phải ta?
Người cỡi ngựa, mình chỉ mặc áo lót, mũ đội phía sau ra trước, nhảy xuống ngựa
tạ lỗi:
- Xin lỗi tiên sinh, tôi đi tìm cha tôi để tạ lỗi. Tiên sinh có biết chữ
không? Tôi muốn nhờ tiên sinh một việc đây!
Hài bực mình nói:
- Ta học trường Quốc-tử giám, sắp thi Thái-học sinh, thì Bách-gia, Chư-tử, Cửu-lưu,
Tam-giáo đều thông. Sao lại không biết chữ?
Người cỡi ngựa tiếp:
- Vậy tiên sinh làm dùm tôi bài biểu tạ tội với cha tôi, tôi sẽ bảo quan Quốc-tử
giám tư nghiệp cho tiên sinh đậu. Năm sau thi Thái-học sinh tôi sẽ lấy tiên
sinh đậu Trạng nguyên, được chăng?
- Nhà ngươi điên à? Nhà ngươi có biết, chỉ có một người cho Thái-học sinh đậu
Trạng-nguyên, đó là vua. Nhà ngươi là ai mà dám nói lớn lối như vậy?
Người kia đáp:
- Tôi là Vua đây.
Đoàn Nhử Hài nhìn lại mũ người đó, quả là vua, vội thụp xuống đất tạ tội. Người
cỡi ngựa chính là vua Trần Anh-tông. Nguyên sau khi chiến thắng Mông-cổ, năm
1293 vua Trần Nhân-tông nhường ngôi cho con là vua Trần Anh-Tông rồi đi tu.
Vua Anh-Tông thường hay rượu chè say sưa. Nhân một hôm uống rượu Xương-bồ say
quá nằm ngủ, thì Thượng-hoàng từ Thiên-trường về Thăng-long. Các quan trong
triều không ai biết cả. Nhân-Tông thong thả xem cung điện từ giờ Thìn đến giờ
Tỵ. Thái-giám dâng cơm. Thượng-hoàng không thấy vua đâu hỏi thái-giám.
Thái-giám đánh thức vua dậy, nhưng vua say quá không tỉnh được. Thượng-hoàng
giận quá bỏ về, lệnh cho các quan về Thiên trường họp, có ý truất phế
Anh-tông. Đến giờ Mùi, Anh-tông mới tỉnh dậy, cung nhân đem việc ấy tâu. Vua
sợ quá không kịp mặc áo, nhảy lên ngựa chạy tới chùa Từ-phúc, thì **ng phải
Đoàn Nhữ Hài. Hai người xuống thuyền về Thiên-trường. Dọc đường Đoàn Nhữ Hài
làm tờ biểu dài hai ngàn chữ tạ tội. Nhưng Thượng-hoàng vẫn còn giận, không
cho vào. Hai người phải quỳ ở ngoài. Các quan liếc mắt nhìn tờ biểu, thấy văn
hay, truyền nhau đọc.
Thượng-hoàng nghe được hỏi:
- Văn ở đâu mà hay như vậy?
Các quan tâu rằng đó là bài biểu tạ tội của vua. Thượng-hoàng truyền:
- Đưa vào đây!
Ý ngài muốn nói rằng đưa bài biểu vào, nhưng các quan hiểu lầm đưa cả Vua và
Đoàn Nhử Hài vào. Thượng-hoàng thấy sự đã rồi, đành tiếp biểu xem, thấy lời
văn điêu luyện, thống thiết, bèn xá tội cho vua Anh-Tông. Ngài phán rằng:
- Ta đang cần một thiếu niên anh tài phụ tá cho con ta. Nay gặp tiên sinh ở
đây
thực là may mắn. Hài trình việc gặp hòa thượng ở chùa Diên-hựu, được hòa thượng
đoán trước sự việc. Thượng-hoàng phán:
- Khoa Tử-vi do Hoàng Bính truyền sang Đại-Việt, khoa này đâu có truyền ra
ngoài dân dã? Hòa thượng xem Tử-vi cho tiên sinh đó là sư phụ của ta, tức Tuệ-Trung
Thượng-sĩ đó (tức Trần Quốc Tung).
Hài nghe xong hoảng sợ, nghĩ hôm trước nếu mình gây với hòa thượng thì bị ốm
đòn rồi. Bởi Tuệ-Trung là một võ học danh gia đời Trần. Thượng-hoàng hỏi số của
Hài, rồi phán:
- Số của tiên sinh là số của bậc tể thần. Sau này làm nên sự nghiệp hiển
hách. Nhưng tiếc rằng Đào, Hồng cư Nô, thì thế nào cũng xảy ra một chuyện bất
chính trong tình trường, lại thêm Tham, Hình nữa thì thế nào cũng vì má đào
mà sự nghiệp tan vỡ, chết vì nghiệp tình, đáng tiếc thay.
Vua Anh-tông tâu rằng:
- Thần nhi nghe nói căn cứ vào khoa Tử-vi có thể cải được số mạng. Thỉnh cầu
phụ hoàng có cách nào cứu được Đoàn tiên sinh không?
Thượng-hoàng bèn xé từ bìa kinh Kim-cương viết mấy chữ Tứ đại giai không, miễn
tử trao cho Đoàn Nhữ Hài. Tứ đại Giai không là chữ lấy trong kinh Kim-cương:
“Vô nhân tướng, Vô ngã tướng, Vô chúng
sinh tướng, Vô thọ giả tướng, tứ đại giai
không”. Nghĩa là không có hình tượng của người, của ta, của chúng sinh,
không có cái gì lâu dài cả. Bốn cái đó đều là hư ảo..
Thượng-hoàng phán:
- Ta xem số thấy cái vạ vì má đào của tiên sinh sắp tới. Nay ta trao cho tiên
sinh mảnh giấy này, khi bị nạn, có thể dùng nó để cứu mạng. Muốn giải cái nạn
Hồng, Đào, Hình, Tham thì phải dùng đến Quyền. Nay ta viết chữ miễn tử tức là
dùng Quyền rồi, phụ với Hóa-quyền đóng chung ở Tham-lang nữa. Muốn giải hạn
Thiên-hình thì dùng đến Không-vong. Ta dùng bìa cuốn kinh Kim-cương, tức là
dùng cái Không của đạo Phật. Như vậy mong có thể cứu được tiên sinh.
Trở về Thăng-long, vua Anh-Tông phong cho Đoàn Nhữ Hài làm Ngự-sử trung tán,
đây là lần đầu tiên một người không đậu đạt gì, mới 20 tuổi được phong làm Ngự-sử
trung tán. Người thời đó ghanh ghét làm thơ giễu Hài như sau:
Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhũ xú Đoàn trung tán. Có nghĩa
là: Ôn câu cổ ngữ tại đài Ngự sử. Miệng của Trung-tán Đoàn Nhữ Hài còn hôi sữa.
Ba năm sau hạn của Đoàn Nhữ Hài qua cung Tý gặp Đào, Tham, Quyền, Hồng và
Thiên-thương, triều đình khám phá ra mối tình của Đoàn Nhữ Hài với một cung nữ
của vua Anh-Tông. Luật triều Trần rất khắt khe với tội ngoại tình. Ngay với
thường dân khi ngoại tình xảy ra, gian phu bị tử hình, dâm phụ tùy người chồng
tha hay không. Nay tội đó xảy ra giữa một đại thần với một cung nữ. Nên cả
hai bị khép tội chém đầu. May nhờ có thủ bút của Thượng hoàng, viết trên bìa
cuốn kinh Kim-cương nên cả hai được miễn tử. Vua Anh- Tông truyền gả cung nữ
cho Đoàn Nhữ Hài.
Đoạn trên đây chúng tôi tóm lược trong sách Đông-a di sự, phần Đoàn Nhữ Hài
liệt truyện.
4.- Tinh hoa khoa Tử-vi đời Trần
Hầu hết những bậc vua chúa, vương
hầu nhà Trần đều nghiên cứu Tử-vi, để làm chìa khóa biết kẻ trung, người nịnh,
biết vận hạn, mưu đồ đại sự.
Như khi triều đình phân vân không biết nên hòa với Mông-cổ, cho Mông-cổ mượn
đường đánh Chiêm-thành, hay nhất định chống lại, vua Thái-tông do dự không
quyết, Huệ- Túc phu nhân chấm số cho tất cả vua, hoàng-hậu, vương hầu, tướng
sĩ, thấy đa số là những vĩ nhân, làm nên những chuyện kinh thiên động địa. Có
một số bị chết thảm nhưng tiếng tăm vang dậy. Phu nhân quyết định rằng: nên
đánh. Bởi đánh thì sẽ thắng, có thắng các vương hầu mới có sự nghiệp vĩ đại
như vậy. Một vài người tuy tuẫn quốc thật nhưng danh thơm muôn thuở.
Có ai ngờ việc quyết định vận số
quốc gia như thế, mà do khoa Tử-vi chiếm một phần. Khoa Tử-vi đời Trần cũng dựa
theo bộ Tử-vi chính nghĩa, rồi nghiên cứu rộng ra về phá cách và trợ cách. Tỷ
dụ, Tử-vi kinh nói rằng :
Thiên-hình, Thất-sát cương táo nhi cô. Nghĩa là, người có thiên-hình, Thất-sát
thủ mệnh thì tính tình nóng nảy, cứng rắn quá mà hóa cô độc. Muốn khuyên răn,
chế ngự bớt sự cuồng táo đó, phải dùng người mệnh có Thái-dương, Thiên-đồng,
Thiên-lương, Văn-xương, Văn-khúc, Đào-hoa, Hồng-loan. Bởi các sao này có thể
giảm bớt sức nóng nảy của Hình, Sát. Tuyệt đối không dùng người mệnh có Kiếp,
Không, Kình, Đà, Tang, Hổ đã đành mà còn tránh dùng người có Tử-vi, Thiên-phủ,
bởi Tử, Phủ kỵ Hình, Sát. Như muốn phá người mệnh có Tử, Phủ thì dùng người
có Kiếp, Không, Kỵ, Hình thủ mệnh. Tử, Phủ thì ngay thẳng, Kiếp, Không thì
gian trá, tiểu nhân vậy dùng những mánh lới hạ cấp sẽ làm cho người Tử, Phủ
khốn khổv.v.... Khoa Tử-vi còn đi sâu hơn nữa. Như người có cung Phúc tại
Thìn được Thái-dương tọa thủ, tức là được hưởng phúc ngôi mộ ông hoặc bố. Muốn
ếm người đó, thì dùng cách ếm mộ ông nội hay cha y, thì y khốn khổ ngay.
Lối này trước đây người ta đã dùng
để ếm mộ ông nội nhà văn Phạm Quỳnh, sau này ếm mộ nhà Ngô. Khi cố Tổng-thống
Ngô Đình Diệm còn tại vị, nhiều người thù ghét, sau biết ngôi mộ tổ được cách
Long phụng triều thì con trai, con gái, con dâu sự nghiệp đều vĩ đại cả. Người
ta đã ếm ngôi mội này. Thành ra khi con long bị đau, nó dẫy lên, lại một người
nam bị nạn, khi con phụng dẫy lên thì có một người nữ bị nạn. Cái lối ếm này
rất thất đức, nên chúng tôi không trình bày chi tiết vào đây. Tỷ dụ: Nhà Trần
đã dùng lối ếm đó để diệt dòng dõi họ Chế ở Chiêm-thành. Trần Khắc Chung vì
thương yêu Huyền Trân công chúa, mà công chúa bị triều đình nhà Trần gả cho
Chế Mân, Khắc Chung tìm biết số Tử-vi của Chế Mân, rồi tìm ngôi mộ cung Phúc
đức ếm, nên chỉ một năm sau Chế Mân chết.
VII. Khoa Tử-vi các đời
sau
Khi nhà Trần bị
nhà Hồ cướp ngôi (1400), con cháu họ Trần tản mác đi khắp nơi, có người dùng
khoa Tử-vi làm kế sinh nhai, khoa này đã do nẻo đó truyền ra khắp dân chúng.
Tương truyền Trần Nguyên Hãn, một
danh tướng đã giúp vua Lê Thái-tổ đánh đuổi quân Minh. Nhưng ông là cháu nội
của Trần Nguyên Đán, một vị Tể-tướng cuối đời Trần, nên khi đuổi giặc Minh rồi,
vua Lê Thái-tổ muốn giết ông. Ông biết ý nói với bạn bè rằng:
Ông xem số Lê Thái-tổ là chỉ có thể
ở với nhau khi hoạn nạn, lúc đại nghiệp thành thì nhà vua sẽ giết công thần.
Vì vậy ông cáo quan về ở ẩn trong dân. Tuy vậy nhà vua vẫn sai 42 vệ sĩ xá
nhân về quê bắt ông. Khi đi đường về kinh, ông dùng võ giết các xá nhân rồi
trốn đi (sử chép thuyền chìm xá nhân và ông đều chết hết). Ông trốn vào
Thanh-hóa ếm ngôi mộ kết long mạch của nhà Lê, nên sau khi vua Lê Thái-tổ
băng, tiếp theo vua Lê Thái-tông bị thượng mã phong mà băng lúc 20 tuổi. Con
vua Lê Thái-tông mới hai tuổi lên ngôi vua cũng bị anh là Lê Nghi Dân giết chết.
Một giai thoại nữa diễn ra dưới triều Lê.
“Khi Lê Thái-Tổ thành đại nghiệp, về quê tế tổ, một ông lão người cùng quê hỏi
rằng:
- Tôi với bệ hạ sinh cùng ngày, cùng giờ, cùng tháng, cùng năm, cùng quê, thế
sao bệ hạ làm vua, mà tôi thì vẫn làm dân?
Trần Nguyên Hãn đáp:
- Đó là cung Phúc cả. Cung Phúc của Chúa tôi với ông đều có Thiên-đồng tọa thủ
tại Hợi. Nhưng ngôi mả tổ ông lại không để trúng long mạch, ngược lại ngôi mộ
của Chúa tôi để trúng long mạch nên được hưởng mệnh trời. Bởi số giống nhau,
nên tướng mạo ông với Chúa tôi tương tự. Tôi nghĩ số ông có phần nào giống
Chúa tôi chứ? Ông làm nghề gì nào?
Đáp rằng:
- Tôi làm nghề nuôi ong, hiện nuôi chín tổ ong.
Trần Nguyên Hãn đáp:
- Đó tôi nói có sai đâu. Bệ hạ làm Chúa chín châu, thì ông làm Chúa chín tổ
ong, tổ nào cũng có vua, có quan, có tướng mà.”
Sau này ông Lê Quý Đôn đi sứ
Trung-quốc mua được bộ Tử-vi âm-dương chính nghĩa, Nam-tông đem về nghiên cứu.
Ông có diễn giải ra bằng thơ lục bát khá đầy đủ. Khoa Tử-vi theo Nam-tông truyền vào Việt-nam từ đó.
(còn tiếp)
|