Bùi Giáng
(1926-1998)
Bùi Giáng, giải minh người minh giải
Đỗ Lai Thúy
***
Con người, sống trên đời, như một
thi sĩ (Hoelderlin)
Bùi Văn Nam Sơn,
nhà triết học và/là một bà con của nhà thơ Bùi Giáng, có lần, thổ lộ: “Viết
đôi lời hay nhiều lời về Bùi Giáng không bằng đọc Bùi Giáng. Đọc Bùi Giáng
không bằng giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng không bằng sống như
Bùi Giáng. Mà sống như Bùi Giáng thì thật vui mà thật khó” (1). Khó vì muốn
sống được như ông, muốn giao du được với ông, muốn đọc được ông để, cuối
cùng, viết được về ông, dù chỉ một đôi lời, thì phải minh định được ông, tức
trả lời câu hỏi: Bùi Giáng, ông là ai?
Những người
cùng thời với Bùi Giáng, có người từng sống cùng/như Bùi Giáng, đã từng giao
du với ông, được đọc nóng thơ văn ông, thì định danh ông, mỗi người mỗi kiểu,
nhưBùi Giáng, kẻ tận hiến (Huy Tưởng), Bùi Giáng, hồn thơ bị vây
khốn (Thanh Tâm Tuyền),Bùi Giáng, nhà thơ của những ngày tháng ngao
du (Cung Tích Biền), Bùi Giáng, một vùng đất hẹp và một thế giới
lớn (Nguyễn Hoàng Văn), Bùi Giáng, người thi sĩ chối bỏ thi ca(Tạ
Tỵ), Bùi Giáng, người lữ hành cuồng điên và khôn cùng kỷ niệm (Văn
Huyền Nguyên),Bùi Giáng, rong chơi giữ đìu hiu phố thị (Vũ Đức Sao Biển)
(2)…
Có lẽ, không hẳn
chỉ có bạn bè Bùi Giáng băn khoăn tìm cách trả lời câu hỏi bản thể luận trên,
mà ngay cả Bùi Giáng cũng luôn tìm cách tự minh định mình (3). Không phải
trong trạng thái của một người điên hoặc người say, mà trong
tâm trạng hoài nghi triết học của một nhà thơ.
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm
(“Tặng Mã Giám Sinh”)
Biển xanh trước
đây đã xanh dâu ngày nay. Tên nhà thơ, bởi thế, là chỉ sự biến dịch. Nơi
nhà thơ sinh ra, quê hương đích thực của ông, chỉ là một giấc mộng, giấc mộng
đầu tiên, xa xưa của nhân loại. Một nhân loại cũng luôn luôn biến đổi: nhất
(một) sinh nhị, nhị (hai) sinh tam, tam (ba) sinh vạn vật. Biến đổi đến mức
xa rời nhất nguyên. Cho nên càng cố tình tra hỏi, càng đo (so đo,
tính toán) thì lại càng lộ ra cái nghi tâm (tâm sai biệt, khác
với bình thường tâm). Bởi thế, chỉ cần đếm sự vật tự nhiên nhi
nhiên, thì chạm tới cái diệu tưởng. Với đôi dòng “lý lịch trích ngang”
này, Bùi Giáng không chỉ “giễu nhại” Nguyễn Du (hoặc đùa cho bớt vẻ nghiêm
trọng), mà chủ tâm muốn lưu ý người đọc đến bản chất con người ông, một người
hoang sơ mà hiện đại, điên mà tỉnh, ngây thơ mà thấu thị.
1. Bùi Giáng, từ ngôn ngữ – ký hiệu đến
ngôn ngữ – sự vật
Ngôn ngữ của nhân
loại từ khởi thủy đã gắn liền với sự vật, thậm chí là bản thân sự vật. Ở giai
đoạn tư duy ma thuật này, tên gọi của một sự vật hoặc của một con người
chính là sự vật đó hoặc con người đó. Vì thế mới có ma thuật ngôn
từ, như bùa, chú, nguyền, rủa… Đến thời tư duy khoa học, mà nếu theo
Heidegger thì đã có lịch sử tới hơn 2000 năm, kể từ khi các triết gia Hy Lạp
hậu Socrates cắt nghĩa sai lầm cái Logos là Lý trí, trong khi
phải hiểu đúng là Lời/ngôn ngữ. Thế cho nên, đến thế kỷ XIX, khi cái
Logos/Lý trí tôn sùng khoa học được đẩy lên kịch điểm, thì ngôn ngữ càng tách
khỏi sự vật, trở thành công cụ phản ánh sự vật. Chủ nghĩa hiện
thực ra đời dựa trên cái nhìn thế giới ấy
của cơ học cổ điển Newton, tin vào sự tồn tại của một thực tại khách quan,
độc lập với ý thức người. Từ thế kỷ XX, với sự xuất hiện thuyết tương đối của
Einstein và cơ học lượng tử của Bohr và Heisenberg, đã dẫn đến sự khủng
hoảng thực tại và, như một hệ quả, của sự biểu đạt thực
tại ấy. Người ta bắt đầu nhấn mạnh đến bản chất ký hiệu của
ngôn ngữ. Ngôn ngữ, từ đây, có tính tự trị, phần nào độc lập với sự vật. Dần
dà, ngôn ngữ còn quy định cả cái nhìn thực tại của con người. Để, cuối cùng,
trở thành vật thế vì cho thực tại. Một quan niệm về ngôn ngữ như
vậy đặc biệt ảnh hưởng đến thơ. Bởi lẽ, từ đây ngôn ngữ thơ chỉ sống
cái đời sống ký hiệu của nó, mà quên mất rằng trước đây nó đã từng
có một cuộc sống khác, quan trọng hơn, là hình dung sự vật. Thơ không
nói ý niệm, ý tưởng về sự vật, mà trình bày trực tiếp sự vật (4).
Một cuộc triển lãm tưng bừng sự vật.
Năm 1945, Bùi
Giáng đỗ thành chung ở vùng kháng chiến thuộc Liên khu V (Nam, Ngãi, Bình,
Phú). Sau đó, hình như ông có đi bộ đội, rồi về lập gia đình và vào núi chăn
dê/bò cho đến 1948. Năm 1950, đỗ tú tài 2 văn chương, ông liền ra Liên khu IV
(Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình) định học đại học kháng chiến. Nhưng đến khi nghe
(hoặc được nghe lại) ông Viện trưởng đọc bài diễn văn khai mạc, Bùi Giáng bỏ
ý định theo học và theo đường Trường Sơn lần về quê quán (5). Rồi vào Sài
Gòn, làm thơ, viết sách và dạy học.
Bài diễn văn ấy
hẳn phải gây cho Bùi Giáng một cú sốc mạnh, hoặc dội một gáo nước làm tràn
vại. Vốn đã từng nguyện làm một người chăn bò, một Tô Vũ chăn dê, giữa vùng
rừng núi hoang sơ tây Quảng Nam, tránh giao tiếp với con người, quanh năm
suốt tháng chỉ trò chuyện với cỏ cây hoặc chuồn chuồn châu chấu, Bùi Giáng đã
sớm thức nhận được sự phân ly giữa từ và vật, giữa ngôn
ngữ và thế giới. Mà trước hết là sự phân ly ở nội bộ ngôn ngữ: giữa
một bên là diễn ngôn khoa học luôn cởi mở, đón chờ đối thoại và bên
kia là diễn ngôn truyện kể (tự sự) khép kín và độc thoại.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa với tư cách
là chủ nghĩa hiện đại âm
bản, vừa tương đồng vừa đối lập với chủ nghĩa hiện đại hậu kỳ phương
Tây dương bản, nhanh chóng thúc đẩy diễn ngôn truyện kể bành trướng, lấn
át diễn ngôn khoa học, để trở thành một siêu/đại tự sự. Ngôn ngữ, vì
thế, trở thành một thứ ngôn ngữ – ký hiệu mang tính tự thân, một ngôn ngữ bị
tha hóa. Tạo ra vực thẳm giữa nó và thế giới, ngôn ngữ này mang tính quyền
uy, tính trang nghiêm giả tạo, xây dựng nên những câu chuyện/ huyền thoại giả
để đàn áp và khủng bố thế giới. Mất tiếng nói, thế giới trở nên câm lặng và
mù lòa (6).
Bùi Giáng làm thơ
là để khôi phục lại tiếng nói ấy. Tức biến ngôn ngữ – ký hiệu trở lại thành
ngôn ngữ – sự vật. Thi nhân đã đưa ngôn ngữ quay về thuở hồng hoang với
các biểu tượng nguyên sơ, với nguyên xuân ,mùa xuân thứ nhất,
của nhân loại, để tẩy trần và nhận lại nguồn tinh lực uyên nguyên. “Thơ tôi làm…, Bùi Giáng viết, chỉ là một
cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào trung tâm bão động một lúc thì lập
tức xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn mang trên hai
cánh mỏng bay đi […] Tôi ra bờ
ruộng nằm ngủ khóc một mình thơ dại
giữa chiêm bao. Trong chiêm bao thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng
lãng đãng chiêm bao” (7). Ứng xử này, có lẽ, là một hằng số trong diễn
trình sống của nhân loại. Con người càng đi xa cội nguồn thì nguyên khí càng
hư hao, nên phải quay về nguồn mẹ, đưa cái Logos nhập vào
cái Mythos, để làm mới lại mình. Ngôn ngữ cũng vậy. Nietzsche gọi đó là
sự hồi quy vĩnh cửu.
Truyền thống Việt
Nam cũng như Đông Á, mỗi khi ngôn ngữ bị khô cứng, hết nhựa sống, thì các thi
nhân đều tìm về suối nguồn nguyên thủy. Đó là các huyền thoại, truyền thuyết,
những tác phẩm đã trở nên minh triết của các triết gia cổ đại như Lão Tử,
Trang Tử, Đức Phật… Truyền thống này, trước Bùi Giáng, đã có trường hợp
Nguyễn Du và các nhà nho tài tử cùng thời đại văn hóa với ông. Để chống lại
thứ văn chương nói chí tải đạo Nho giáo, Nguyễn Du, một mặt đã làm một hành
hương về nguồn cổ đại, mặt khác tìm đến với nghệ thuật của đô thị Trung Hoa,
như một thứ tư tưởng hiện đại của
thời đại mình. Ông đã học tiếng nói của người trồng dâu trồng gai, tư tưởng
Thiền và Lão Trang, rồi chuyển dịch cuốn tiểu thuyết tài tử – giai nhân của
Thanh Tâm Tài Nhân thành Truyện Kiều, một tiểu thuyết bằng thơ, với
một mã lục bát mới, có thể gọi là “lục bát Nguyễn Du”, khác hẳn lục
bát ca dao và lục bát truyện nôm.
Còn Tản Đà, ở vào
thời suy tàn của thơ ca Trung đại, của con người cá nhân tập đoàn, tiếng nói
cá nhân cá thể mới mẻ của thi nhân phải ngụ vào tiếng nói luôn ở thì hiện tại
của văn nghệ dân gian. Đồng thời ông cũng đến với tư tưởng hiện đại của thời
Khai Sáng Pháp trong các tác phẩm của Lư Thoa (Rousseau) và Mạnh Đức Tư Cưu
(Montesquieur) qua phong trào Tân thư. Hơn nữa, Tản Đà còn là một trong những
người đầu tiên làm chủ báo, chủ bút, trợ bút và sống hoàn toàn bằng nhuận
bút. Ông đã làm mới lại các thể thơ dân gian, thể thơ truyền thống bằng một
bút pháp mới với những rung động ở vùng “mù mờ tình cảm” (chữ của Xuân Diệu).
Bởi thế, đầu óc dù còn vương vấn tinh thần trung đại, nhưng trái tim thì đã
thuộc về thời hiện đại.
Như vậy, nếu tư
tưởng tiên tiến của Nguyễn Du là ý thức cá nhân tập đoàn gắn với văn hóa đô
thị phương Đông trung đại, còn Tản Đà là ý thức cá nhân cá thể gắn với đô thị
hiện đại phương Tây thế kỷ XVIII, thì Bùi Giáng là ý thức cá nhân toàn vẹn
gắn với những trào lưu tư tưởng và triết học hiện đại thế
giới của thế kỷ XX. Có thể, một tuổi thơ gần gụi với thiên nhiên (8), ảo
tượng mười lăm năm Tô Vũ chăn dê (9), cái chết đau thương của người vợ trẻ,
chấn thương chiến tranh, nhất là chấn thương bởi diễn ngôn bạo lực (những
khẩu hiệu, biểu ngữ, mít tinh, tuần hành, đồng phục, đấu tố, chỉnh huấn chỉnh
phong…), khiến Bùi Giáng có cảm giác tha hương ngay trên chính quê hương, hay
lưu đày trên chính quê nhà. Tâm trạng này của thi nhân tương hợp với tư tưởng
của trào lưu hiện sinh trên thế giới và ở đô thị miền Nam bấy giờ, qua các
tác phẩm của J-P.Sartre, A.Camus và các nhà văn hiện sinh khác. Bản thân Bùi
Giáng đã dịch A.Gide, A.Camus, Saint – Exupéry… Từ chủ nghĩa hiện sinh, thi
nhân đến với hiện tượng
học hiện sinh của K.Jaspers, J-P.Sartre, rồi từ đó đến hiện
tượng học hữu thể của M. Heidegger, cuối cùng từ Heidegger trở lui về với
Hoelderlin.
Có thể nói, gặp
Heidegger với Bùi Giáng là một hạnh ngộ. Bởi lẽ, hiện tượng học hữu thể, hoặc
hiện tượng học thông diễn, nhất là qua việc Heidegger diễn giải thơ
Hoelderlin, người thi sĩ Việt Nam không chỉ bắt gặp ở triết học Tây phương
cái tư tưởng trở về nguồn cội quen thuộc của minh triết Đông phương, mà, quan
trọng hơn là sự về nguồn này không phải ở bên ngoài sự vật, mà ngay trong
chính bản thân sự vật, trong chính bản thân con người nhận thức sự vật. Tức
trở về với bản chất uyên nguyên của vạn vật. “Đó là tiếng nói Tinh Thể
Uyên Nguyên của thơ: Thi sĩ đã bước vào Vòng Tay Rộng Rãi của Thiên Nhiên, và
cuộc tiến nhập đó đã đặt người thi sĩ vào trong Cõi Nguồn Tinh thể của mình”
(Lễ Hội Tháng Ba).
Triết học Tây
phương sau Kant, với sự phát triển tột bậc của khoa học tự nhiên, dần dần
nghiêng về nhận thức luận. Và, một khi khoa học tự nhiên, nhất là vật lý học,
đóng vai trò chủ đạo trong soi sáng mọi lĩnh vực của thế giới, thì triết học,
do hết đất dụng võ, đành phải quay ra nhận thức mảnh đất còn phủ bóng dưới
chân của chính khoa học tự nhiên. Triết học, vì thế, trở thành nhận thức
luận, tức khoa học của các khoa học và, do đó, xa rời bản thể học. Hay nói
như Bùi Giáng, mượn lời Heidegger, là “lãng quên hữu thể”. Lý tính, do vậy,
dần dần cũng bị triết học công cụ hóa. Sự vật trở thành đồ vật, tồn tại vong
thân, trơ ỳ, rắn chắc.
Hiện tượng học
bắt đầu với Husserl còn ít nhiều mang tính nhận thức luận (bởi thế, nó tồn
tại vừa như một lý thuyết vừa như một phương pháp), nhưng đến Heidegger thì
đã là một nền hữu thể học hoàn bị. Thế giới lúc này, trong cái nhìn của hiện
tượng học, chỉ là thế giới khi có một ý thức hướng đến nó, còn ý thức cũng
chỉ là ý thức khi có một thế giới để nó hướng đến. Sự phân chia chủ thể /
khách thể, khiến giữa chúng mở ra một vực thẳm, đã không còn nhiều ý nghĩa.
Giờ đây, tất cả đều là chủ thể, vừa là cái nhìn vừa là cái được/bị nhìn. Và,
trong thế tương tác song phương ấy, sự vật trở lại trạng thái ban đầu, trạng
thái lần đầu tiên nó trình hiện. Còn nhà triết học thì cũng phải thực hiện
những phương pháp giảm trừ, như những thao tác lau rửa. Nhờ thế, sự
vật tự phơi mở trước con người không phải như một đồ vật, một đối
tượng nữa, mà như một hiện tượng.
Hiện tượng học
Heidegger trở lại với hữu thể học nhưng không phải là sự tiếp nối truyền
thống hữu thể học cổ điển từ Platon, mà là hữu thể học hiện đại với việc nhận
thức lại, thậm chí thay đổi, vai trò của chủ thể, tạo ra một hệ hình mới
trong lịch sử triết học và mỹ học. Nền hữu thể học cổ điển, lấy cái bên ngoài
làm thước đo, chọn cái siêu việt để cắt nghĩa tồn tại hữu thể, đã bị lật
nhào. Giờ đây, với nền hữu thể học thời mới, của hệ hình mới, khởi đi từ hiện
tượng học, chỉ có chủ thể là hoàn bị, là nguyên nhân đầu tiên của hiện hữu,
là căn nền tồn tại của thế giới. Thế giới chỉ còn là thế giới được chủ thể
cấp nghĩa mà thôi.
Cái nhìn mới về
con người và thế giới này đã làm sống lại ngôn ngữ thi ca ngay ở Mưa
Nguồn, tập thơ đầu của Bùi Giáng.Mưa Nguồn là mưa ở phía tây, vùng rừng
núi, nơi xuất phát của những dòng chảy, và của tất cả những gì trôi chảy.
Nước đầu nguồn thì trong sạch, trinh nguyên, nhưng càng về trung du và đồng
bằng, nhất là qua những đô thị, thì càng ngầu đục. Con người, cũng như nước,
càng xa nguồn thì lại càng khát khao về nguồn, để, một lần nữa, được hưởng sự
thanh thỏa với một ý thức trọn vẹn. Mưa Nguồn trong thơ Bùi Giáng,
bởi thế, là một biểu tượng gốc (archétype), là trung tâm của một
trường nghĩa. Chữ Nguồn trong Mưa Nguồn, phái sinh một hệ biểu tượng chỉ
những cái nguyên thuỷ, ban đầu, gốc rễ, những cái tiết trinh và nguyên lành,
là bản chất của thế giới tự nhiên khi chưa bị những quan niệm của truyền
thống cưỡng bức, vấy bẩn
Trước hết, có thể
thấy biểu tượng này nằm ở chiều kích không gian, như nguyên
tuyền, nguyên khê (“Nghe trời đổ lộn nguyên khê”), cổ
độ (“Nước xuôi dòng là cổ độ nhìn theo), rừng, ngàn (“Lỡ từ
lạc bước chân ra/ Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn”), đất Thượng (“Miền đất Thượng có mấy bờ hoa mọc/ Xa
biệt lắm mưa nguồn trên mái tóc/ Đã
mấy lần thổi lạc lệ lưa thưa”)… Rồi những ngọn nguồn khác: thời gian vũ
trụ :nguyên xuân (“Thưa rằng: ly
biệt mai sau/ Là trùng ngộ giữa
hương màu Nguyên Xuân”), thời gian trong một năm: xuân (“Ngày xuân xanh sơ ngộ để thiên thâu”), thời gian trong vòng đời một
người: tuổi thơ (“Non hồng chiều vọng chân mây/ Sương chừng lãng
đãng rơi đầy tuổi thơ”)… Rồi thời gian của người, trước hết là người châu
Phi như là một ngọn nguồn phát tích của nhân loại. Mưa Nguồn được
viết để “tặng ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ châu Phi”. Sau đó là đến
người Mọi (người rừng/ người ở rừng), cô em Mọi nhỏ (“Em từ Mọi Nhỏ
thanh tân/ Mười hai con mắt thiên thần mở ra”; “Mọi là Em, Mọi Sơ Xuân/
Ban sơ núi đỏ chào mừng non xanh”). Thậm chí là đươi ươi, một tiền
nhân, dự nhân của con người. Bùi Giáng tự nhận mình là Đười Ươi Thy Sĩ, nên “Ta về rũ áo đười ươi/ Trút tờ phong nhã
cho người phụ nhau”… Sau cùng là không – thời – gian – chiêm – bao, tuy
là một hỗn độn, nhưng lại là khởi nguồn của định danh, nên cũng có
tên là cố quận: “Hỗn mang về giữa
hiên nhà/ Bấy giờ cố quận tên là
chiêm bao”. Thơ Bùi Giáng, bởi vậy, đầy những chiêm bao, mộng, mộng mị,
mộng ban đầu, sơ nguyên mộng…
Nước, cùng với
lửa, mang tính tẩy rửa. Nước mưa càng có giá trị thanh tẩy cao hơn. Mưa, nhất
là Mưa Nguồn, là một hành vi làm sạch mang tính vũ trụ, linh thiêng.
Không phải ngẫu nhiên mà trước ngày lễ, ngày hội thường có những cơn mưa rửa
đền, rửa chùa. Sự vật sau khi sinh ra đều phải lăn lóc chốn hồng trần, nên
không thể không lấm bụi đời. Để trở về với thể tính hoặc tinh thể uyên nguyên
của mình, không thể không lau rửa. Thao tác lau rửa này phần nào giống
với các phương pháp giảm trừ hiện tượng học. Như vậy, không chỉ vật được nhìn
mà cả mắt nhìn đều cần được lau rửa – giảm trừ hiện tượng học. Cả hai quá
trình này, một ở đối tượng một ở chủ thể, gặp gỡ nhau, xoắn luyến vào nhau
làm cho sự vật hiện hữu, hoặc tồn tại đích thực, tức một tồn tại ở trong
sự nói về tồn tại là ngôn ngữ. Và, vì thế, ngôn ngữ được phục sinh ở
trạng thái nguyên thủy:
Tiếng nói xưa vang trên đầu ngọn lúa
Vì ngôn ngữ ngày kia em để úa
Bỗng lên lời bên mép cỏ như sương
Cũng xanh như dòng lệ khóc phai
hường.
(“Biểu tượng nguyên sơ”)
Đọc Mưa
Nguồn, bởi thế, ta như bước vào một thế giới vừa quen thuộc vừa mới lạ.
Trong cái nhìn hiện tượng học, cũng cây cỏ ấy, cũng bờ lúa ấy, cũng những
bông hoa ấy, nhưng dường như chúng xanh hơn, thắm tươi hơn. Giống như một
thiên nhiên sau mưa và mặt trời ló rạng với một ánh sáng khác: “Vũ quá sơn dung sấu/ Thiên quang trúc ảnh trường” (Nguyễn Trãi). Bởi thế, nhại
theo một công án thiền, ta cũng có thể nói, chưa gặp hiện tượng học thấy núi
là núi, sông là sông. Gặp hiện tượng học rồi lại thấy núi vẫn là núi, sông
vẫn là sông; nhưng đã là một thứ núi sông khác, một thiên nhiên khác. Thiên
nhiên ấy tôi cũng từng đã bắt gặp ở Tây Tạng: trong những thung lũng, sườn
núi, hồ nước. Trên cao năm nghìn mét, với một mắt nhìn trong sáng và một bầu
khí trong vắt, thì mọi vật từ màu sắc, hình khối, âm thanh, nhịp điệu đều trở
nên thật hơn và, do đó, cũng huyền diệu hơn.
Thiên nhiên Mưa Nguồn còn
một khác biệt nữa là không bất động mà luôn trôi chảy. Nếu trong Thơ Mới, nhất là ở Bức Tranh
Quê của Anh Thơ, thiên nhiên được miêu tả một cách duy nhiên (“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng/ Đò biếng
lười nằm mặc nước sông trôi”),
thì thiên nhiên thơ Bùi Giáng luôn ở trong thế tràn bờ: sự vật không chỉ là
nó mà còn là không – nó. Tức luôn trong tư thế giao tiếp, đối thoại với mọi
vật khác để mà biến đổi mình, đúng hơn được là mình trong dòng tồn tục. Bởi
lẽ, trong cuộc đối thoại này, mọi vật đều là chủ thể đang tự phơi mở và hướng
đến một chủ thể khác cũng đang tự phơi mở.
Trong thế giới thơ Bùi Giáng, mọi vật đều hướng về nhau: sự
vật hướng đến sự vật, con người hướng đến sự vật, sự vật hướng đến con người,
con người hướng đến con người… Bởi vậy, ở Mưa Nguồn, có rất nhiều những
từ chỉ sự giao tiếp, như ngó (“Thuở xưa kia suối ngọc ngó mây
vàng”), nhìn (“Em ngồi lại
nhìn thu lên bóng nước/ Con cò trắng nhớ nhung trời bữa trước”), nghe (“Nghe trong mình nước mắt chảy lên mi/ Nghe bốn bên thiên hạ ngó em
vì”), chờ (“Đồng ruộng đó
đương chờ em bước tới”), rủ (“Khắp
bốn bề thiên hạ rủ nhau thưa/ Em là em con gái tuổi đang vừa”), níu (“Môi cười trong lệ mù sương/ Níu trong
hồng hạnh thu hường đã phai”, “Giòng sông chảy ai người xin níu lại”)…
Bùi Giáng, nhờ
thế, có một giọng điệu tâm tình đặc biệt. Mỗi bài thơ được viết ra như để tự
bộc bạch hoặc nói với ai đó. Ngôn ngữ thi nhân đầy những từ biểu cảm bày tỏ
thái độ người nói, như thế nên chi (“Cũng lay lắt bởi đời xuân em
ạ/ Thế nên chi anh cũng viết giòng này”), em ồ em (“Mở con mắt một
lần lên tiếng thử/ Em ồ em, anh nói một lời này”)… Đặc biệt, có nhiều bài là
những đối thoại trực tiếp theo công thức hỏi rằng, thưa rằng (“Hỏi
rằng: người ở quê đâu/ Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà”), hoặc đơn giản
chỉ hỏi, rằng (“Hỏi tên, rằng: Biển – Dâu – Ngàn/ Hỏi quê, rằng: Xứ
mơ màng, đã quên”). Và, ở trong trường giao thoại này, các đại từ nhân xưng
thơ Bùi Giáng nhiều khi cũng không còn là nó nữa, tức có sự chuyển ngôi, đổi
ngôi, hoặc cùng lúc kiêm nhiệm nhiều ngôi. Đại từ nhân xưng anh,
em là một ví dụ. Anh, em có thể là ngôi thứ nhất (tự xưng), ngôi thứ hai
(người ngôi thứ nhất nói với) hoặc ngôi thứ ba (người ngôi thứ nhất
nói về) tuỳ theo ngữ cảnh. Cũng có trường hợp trong một ngữ cảnh,
anh, em có thể đóng cả ba vai. Tức có hiện tượng nhòe ngôi. Như
vậy, nếu nhìn theo chiều ngược lại, thì ngôi thứ ba luôn luôn bị sát nhập vào
ngôi thứ hai. Thế giới không còn tiếng nói độc thoại đã đành, mà không cả
tiếng nói về một đối tượng vắng mặt, chỉ duy nhất vang lên tiếng nói song
thoại. Nghĩa là, quan hệ tôi và nó mang tính độc thoại, trong đó
con người bị nhìn, bị tước đoạt tự do, bị đối tượng hóa, đã được thủ tiêu;
chỉ còn lại quan hệ tôi và anh mang tính đối thoại, con người nhìn
nhau, tự do và cá tính được bảo toàn.
Trở về với sự
vật, nhất là những sự vật trực quan, cụ thể, đồng thời lại đưa sự vật ấy vào
các quan hệ tương tác, đối thoại, thế giới ngôn ngữ Bùi Giáng, vì thế, vừa
sáng rõ vừa mơ hồ, như có nắng trong mưa. Nhưng chính tính lưỡng thê này mới
là sự tồn tại đích thực. Bởi mọi tồn tại đích thực đều là tồn tại trong
thế giới, hữu thể – tại – thế, tức tồn tại trong và bằngquan
hệ, tồn tại trong sự trở thành. Vì thế mà tồn tại nào cũng là trung
chuyển. Và trung chuyển nào cũng là sương mù. Và chính ở trạng thái vừa có
ánh sáng của sương, vừa có bóng tối của mù, mới xuất hiện một vầng sáng năm
màu rực rỡ nối liền trời và đất.
2. Bùi Giáng, từ chơi chữ đến trò chơi
ngôn ngữ
Văn chương Việt
đầy rẫy những chơi chữ với nhiều hình thức khác nhau. Từ chuyển phụ âm đầu
(“Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc/ Trái gió cho nên phải lộn lèo” – Hồ
Xuân Hương), dùng đồng âm dị nghĩa (“Tôi tôi vôi/ Bác bác trứng” – Câu
đối;Mồm bò mà không phải mồm bò mà lại phải mồm bò” – Câu đố dân gian),
nói lái Hán – Nôm (“Chi chi dã” thành “Cha cha đĩ” – Nguyễn Khuyến),
chiết tự chữ Hán (“Thiên duyên cũng muốn nhô đầu dọc/ Phận liễu sao đà nảy
nét ngang” – Hồ Xuân Hương), thậm chí bẻ chữ Tây, tên Tây ra thành từ
Việt để chơi (“Chắc tôn ông không bằng lép tôn tôi/ Lep Tônxtôi”
– Giai thoại Chế Lan Viên đùa Nguyễn Đình)… Chơi chữ làm cho câu văn trở
nên, một mặt đa tầng, ẩn ý, mặt khác trào lộng, dí dỏm. Đây là những trường
đình, đoản đình, chỗ nghỉ óc cho một hành trình đọc những văn bản trang
nghiêm, đôi khi đến mức thành khô cứng, giả tạo, nơi thông gió trong những xã
hội bị thống ngự bằng thứ diễn ngôn chi hồ giả dã.
Ngôn ngữ nào,
đành rằng, cũng có những chơi chữ. Nhưng, có lẽ, không ở đâu ngôn ngữ lại là
mảnh đất màu mỡ cho những trò chơi chữ nghĩa như ở tiếng Việt. Là ngôn ngữ
đơn âm tiết, tức mỗi từ là một hình vị, tiếng Việt sở hữu vô số, có lẽ chỉ ít
hơn tiếng Hán, những từ đồng âm khác nghĩa, một trong những cơ sở chủ yếu của
chơi chữ. Tính đơn âm tiết này còn mạnh đến mức tạo thành xu hướng đơn âm
tiết hóa các từ đa âm tiết nước ngoài, nhất là các nhân danh và địa danh,
thành các từ đơn âm, để nó đủ tư cách pháp nhân tham dự cuộc chơi. Bởi thế,
hẳn chỉ có tiếng Việt mới có những thể loại văn bản ngôn từ chuyên chơi chữ,
như câu đối, câu đố, đố thanh giảng tục/ đố tục giảng thanh, tiếu lâm, truyện
cười, giai thoại…
Bùi Giáng, cũng như mọi nhà thơ Việt
Nam tài năng khác, đều đủ giàu có ngôn từ để chơi chữ. Bùi Giáng còn được gọi
là “Tề Thiên ngôn ngữ”, là “bát ngát trời chữ nghĩa”. Kho từ vựng của ông đủ
để nói về tất cả các lĩnh vực ngược và xuôi. Nói xuôi cũng được nói ngược
cũng xong. Bởi thế, ở đây chỉ xin dẫn ra ông chơi cái tên của mình vừa như
một sự tra vấn bản thể luận, vừa như một đùa cợt, bằng cách nói lái đủ kiểu,
như Bùi Bàng Dúi, Bùi Bán Dùi…, nói lái kiểu tiếu lâm nghịch ngợm: Bùi Tồn
Lưu, Bùi Tồn Lê…, ghép chữ: Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ, Brigitte Giáng,
Giáng Monroe… Thậm chí, ở ngay chỗ nghiêm chỉnh nhất là các thuật ngữ triết
học hiện tượng luận, Bùi Giáng cũng làm người ta giật mình bởi lối lái chữ
nghịch ngợm như tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lý tý ngọ, tồn lập
tập trung…. , rồi cồn lau, cồn lê… “Lọt thềm trận gió đi hoang/ Tồn liên ở
lại xin làn dồn ra”…
Tuy vậy, Bùi
Giáng không dừng lâu trước trò chơi chữ. Bởi, chơi chữ là buộc người ta phải
thừa nhận rằng mỗi từ có một nghĩa đen, nghĩa chủ yếu quy chiếu về một thực
tại khách quan độc lập, nên mọi sự chơi chữ, mà thực chất là “chơi nghĩa”,
đều chỉ là sự biến điệu xung quanh cái nghĩa gốc ấy. Các biện pháp chơi chữ,
vì vậy, đều rất hữu hạn. Hơn nữa, đã nói đến trò chơi là nói đến quy tắc, bởi
quy tắc tạo ra trò chơi. Người chơi, bởi vậy, phải tuân thủ quy tắc. Vì thế,
xét cho cùng, người chơi cũng chỉ là một yếu tố của sự chơi. Là một người tự
do, không chịu bất cứ một ràng buộc nào, dẫu là sự ràng buộc của sự chơi, Bùi
Giáng nhanh chóng chuyển sang một cuộc chơi khác là trò chơi ngôn
ngữ (10).
Trò chơi ngôn ngữ
cũng có quy tắc. Và, xét riêng ở cạnh khía ngôn ngữ thì quy tắc ở
đây chính là ngữ pháp. Bởi không có ngữ pháp thì không có lời nói, tức không
có sự thực hành ngôn ngữ. Nhờ có các quy tắc và/là ngữ pháp mà ngôn ngữ, một
mặt, có thể diễn tả được sự áp dụng đa dạng, mặt khác là tính hệ
thống và, do đó, tính phi thời gian. Nhưng từ cạnh khía trò
chơi, thì ngôn ngữ lại gắn liền với thời gian. Bởi lẽ, người ta không
thể nào ngay cùng một lúc biết hết được toàn bộ những trường hợp áp dụng của
một từ trong thực tiễn. Điều này chỉ có thể dần dần được biết đến trong thời
gian. Hơn nữa, trong trò chơi, bất kỳ một ngẫu nhiên nào, dù nhỏ bé đến đâu,
đều có khả năng tạo ra hiệu ứng cánh bướm, khiến trò chơi đi theo những hướng
bất ngờ nhất, ngoài mọi sự tiên liệu. Như vậy, khi ngôn ngữ bắt đầu được quan
niệm như làhành động, tức trò chơi, thì khái niệm quy tắc ngữ pháp cũng
được thay thế bằng khái niệm luật chơi (quy tắc của trò chơi). Như
vậy, từ chơi chữ đến trò chơi ngôn ngữ thực chất là từ nghĩa đến ý
nghĩa, từ từ pháp học đến ngữ pháp học rồi đến ngữ
dụng học.
Trò chơi ngôn ngữ
ra đời còn như là hệ quả của một quan niệm mới về thực tại: ngôn ngữ gắn liền
với đời sống, biến đổi đời sống, thậm chí là bản thân đời sống (“Tôi gọi Cần
Thơ là Cần Thở/ Cần Thơ ơi… cần thở đến bao giờ”). Trò chơi ngôn ngữ, bởi
vậy, là những thời đoạn trong tiến trình cuộc sống. Chính nó mang lại cấu
trúc, hình thái và phương hướng cho tiến trình ấy. Các trò chơi ngôn ngữ, vì
vậy, tuy cũng được cấu trúc hóa bằng các nguyên tắc, nhưng là các nguyên tắc
theo ý đồ của nguời hành động. Vả lại, các quy tắc ấy ra đời trong diễn trình
chơi, trong sự tái tạo liên tục những cấu trúc mới trong thế giới cũng như
trong tư duy. Các cấu trúc ấy không quy định thế giới cũng như tư duy một
cách lâu bền, mà chỉ là các quy tắc ứng với từng trường hợp, có giới
hạn. Tức các quy tắc này chỉ tồn tại trong trò chơi, hết trò chơi là hết quy
tắc. Đồng thời, quy tắc ấy cũng chỉ thực sự sáng tạo trong thực
hành các trò chơi. Người nghệ sỹ, do vậy, trước khi tham dự vào trò chơi
ngôn ngữ thì không/chưa có quy tắc nào cả, chỉ khi anh ta viết thì quy tắc
mới dần dần xuất hiện, bởi lẽ anh ta cầm bút chính là để tạo ra quy tắc. Một
thứ quy tắc trước hết của và cho anh ta, do đó, mang đậm
cá tính sáng tạo của anh ta. Quy tắc này, quả thật, không như một hình mẫu để
dành cho người khác.
Thời điểm Bùi
Giáng chuyển từ chơi chữ sang trò chơi ngôn ngữ thì khó mà biết được một cách
chính xác, bởi lẽ, sự đứt đoạn này, có thể, được tạo ra bởi một quá trình.
Quá trình đó, có khi bắt đầu từ khi ông làm “Tô Vũ chăn dê”, hàng ngày lùa bò
vào rừng, mang theo những cuốn sách tiếng Pháp dày cộp, rồi để mặc chúng tự
do gặm cỏ, còn mình thì tìm một nơi thuận tiện ngồi gặm sách. Vào đầu những
năm 60, không khí học thuật và tư tưởng ở thành thị miền Nam còn đang cởi mở
và bản thân Bùi Giáng cũng vừa đạt tới độ chín, thì thi nhân cho xuất
bản Mưa Nguồn (1962), tập hợp những bài thơ sáng tác trước đó, như
để chấm dứt một giai đoạn, đồng thời tạo ra một cái vốn/ thương hiệu/ quyền
uy, để bày đặt ra cuộc-chơi-thơ-ca mới. Sau đó Bùi Giáng tạm nghỉ làm thơ và
liên tiếp cho ra đời những tập khảo cứu triết học như Tư Tưởng Hiện
Đại (1962), Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại (2 tập)
(1963)… Đến đây, có thể nói, ảnh hưởng của triết học đã làm thay đổi toàn bộ
cuộc sống và sáng tác của nhà thơ. Bởi thế, người ta có thể thấy các thi phẩm
in về sau, càng xa Mưa Nguồn bao nhiêu thì càng khác biệt
với Mưa Nguồn bấy nhiêu.
Ở Mưa Nguồn, Bùi Giáng còn chú trọng nhiều đến việc đưa ngôn ngữ
trở về với bản tính nguyên sơ, chân thực của nó. Và, cũng ở tập thơ này, Bùi
Giáng cũng rất quan tâm đến thể tính của thi ca. Ông tìm nó ở thơ, ở ngôn ngữ
thơ và ở cả cái nên thơ. Còn trong những tác phẩm sau Mưa Nguồn,
như Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn, Sa Mạc Trường Ca,
Rong Rêu, Mười Hai Con Mắt, Tuyết Băng Vô Tận Xứ. Mùa Màng Tháng Tư…, Bùi
Giáng đã vượt thoát ngôn ngữ, vượt qua sự đi tìm thể tính thi ca ở những phạm
trù vĩnh cửu là cái đẹp, cái thơ. Bùi Giáng bây giờ không còn cư ngụ ở ngôn
ngữ nữa, không cả ở cái đẹp, cái thơ nữa, mà ở cái siêu tuyệt, cái tổng thể,
để, cuối cùng, lại không ở cái siêu tuyệt, cái tổng thể nữa, mà ở
những cái nhìn, những ứng xử trong mỗi trường hợp sống, mỗi
khoảnh khắc, mỗi lát cắt sống, tức, mỗi trò chơi ngôn ngữ. Bởi vậy, với thi
nhân, thơ ở phương diện thể loại như một vũ trụ dãn nở, không ngừng chuyển
dịch về đỏ. Bây giờ, không chỉ tiểu thuyết mới là thể loại mở, đang hình
thành, mà cả thơ. Thơ Bùi Giáng cùng lúc chứa nhiều thể thơ, thậm chí thể
loại. Nghĩa của mỗi câu thơ, của từng bài thơ càng ngày càng trở nên bất
định, hũ nút, thậm chí vô nghĩa. Từ chỗ thay đổi quan niệm về thơ, Bùi Giáng
thay đổi cả quan niệm về sáng tác, kể cả cách sáng tác.
Làm thơ với
Bùi Giáng, từ đây, không phải là sáng tác nữa mà là ứng tác. Thi nhân
viết trong mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp cụ thể. Cần thì viết, hầu như không
phải đắn đo suy nghĩ gì. Thầy Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm, người
chuyên in sách Bùi Giáng, kể: “Ảnh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào
ngồi viết hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say khướt rồi
về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Đêm cũng không thức,
chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có
máy, có giấy, nói buổi sáng thì buổi tối ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm,
bảy trăm trang”. Còn đây là cảnh tượng Bùi Giáng làm thơ tại
chỗ dưới con mắt kinh ngạc của Mai Thảo: “Ông hỏi mượn một cây bút, xin
một xấp giấy, một chai bia lớn nữa. Ông làm thơ tại chỗ […] Bùi Giáng viết,
thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim
chảy xuống, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút từ đầu ngón tay thôi […] Chai bia
còn sủi bọt […] đã xong hơn hai mươi bài thơ […] bài thơ nào cũng khác lạ,
cũng thật hay, cũng đích thực là từng hạt ngọc của cái thơ Thượng Thừa Bùi
Giáng” (12).
Như vậy,
làm thơ tại chỗ, hay ứng tác, Bùi Giáng không nghĩ nhiều đến kết quả
cuối cùng của/là từng bài thơ. Ông chỉ đáp ứng nhu cầu trước mắt, tùy từng
hoàn cảnh mà sáng tác, sáng tạo xong là xong. Thơ ông giai đoạn này, bởi vậy,
như hỗn hợp nhiều tư tưởng, phong cách, thể loại, ngôn từ đối lập nhau. Bởi
thế, có người, như Thụy Khuê chẳng hạn, tiếc cho Bùi Giáng bên cạnh những bài
thơ, câu thơ tuyệt tác, lại có nhiều câu thơ độn, nhiều bài thơ độn, tự lặp
lại mình một cách dễ dãi. Thực ra, đọc thơ Bùi Giáng giai đoạn sau Mưa
Nguồn, không nên chỉ chú ý đến từng bài riêng rẽ, mà chú ý đến quan niệm tổng
thể của thơ ông. Bởi lẽ, lúc này thi nhân không còn đi tìm cái đẹp ở thơ, mà
đi tìm cái tổng thể, cái siêu tuyệt, là những cái không còn nằm ở sự cân đối,
hài hòa, thơ mộng, hợp lý nữa, mà nằm ở những gì phi đối xứng, không hài hòa,
lệch chuẩn, thậm chí phi lý, hay đúng hơn cái nằm ở đằng sau,
ở phía bên kia tất cả những thứ đó.
Ở chỗ
này, Thanh Tâm Tuyền, nhà thơ cách tân hàng đầu Việt Nam, nói rất đúng: “Với
tôi là từng bài thơ. Nói đến từng bài thơ Bùi Giáng, bài thơ này bài thơ kia
của Bùi Giáng lại là chuyện tức cười lắm lắm. Bùi Giáng là cái hiện tượng dị
thường của một suối thơ ăm ắp không ngừng. Đọc Bùi Giáng cũng phải đọc như
thế. Đứng trên đơn vị từng bài. Bùi Giáng đặt tựa cho từng bài là ngắt thơ
ra, ngắt chơi ra vậy thôi. Nói đến mấy ngàn bài thơ Bùi Giáng là đúng. Mà nói
thơ Bùi Giáng chỉ có một bài, vô tận vô cùng, là đúng hơn” (13). Lời nhận xét
xác đáng của Thanh Tâm Tuyền dành cho Bùi Giáng, gợi nhớ đến Nietszche với
quan niệm về ba biến thể của sáng tạo. Bùi Giáng đã vượt qua giai
đoạn lạc đà, rồi giai đoạn sư tử, thậm chí ở ông dường như không hề
có những giai đoạn ấy, mà chuyển ngay sang giai đoạn đứa trẻ. Ông đã đạt
đến chỗ thượng thừa của sáng tạo kiểu thiên tài khi ông đã sống như chơi, như
anh nhi, như đồng ấu. Đứa trẻ – sáng tạo – chơi trong Lão – Ngoan – Đồng –
Bùi – Giáng đã hiện hữu sống động, nó chơi/sáng tạo trong từng phút, từng
giây tham dự ở đời. Bởi thế, với người chơi Bùi Giáng, nói như
Thanh Tâm Tuyền, chỉ có cái sáng tạo tổng thể, và bài thơ là từng nhát cắt
rời của cái tổng thể ấy, và cả của cái hiểu của những con người bình thường,
những kẻ chỉ biết chơi – thi thoảng.
Không chú ý đến kết quả sáng tạo,
Bùi Giáng chỉ chú trọng đến diễn trình sáng tạo. Tức biến thơ, từ
nghệ thuật không gian thành nghệ thuật thời gian, từ loại hình nghệ thuật
định cư thành nghệ thuật du cư. Tất cả đều lên đường, tất cả
đều trên đường: “Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía trước miên
trường phía sau”. Chỉ ở diễn trình người ta mới thấy được tính chất trò chơi
của nghệ thuật, thi ca, của trò chơi ngôn ngữ. Diễn trình mang lại niềm vui
sáng tạo, bởi người chơi được là chính mình. Bùi Giáng khi làm thơ thường hay
nói đến từ chơi, rỡn, đặc biệt là câu cửa miệng vui thôi mà!
Sự chú trọng đến diễn trình sáng tạo hơn là kết quả sáng tạo ở Bùi Giáng
khiến người ta nghĩ đến nghệ thuật đương
đại như nghệ thuật
sắp đặt, trình diễn, nghệ thuật video, nghệ thuật thực địa, nghệ thuật đa
phương tiện… Trước hết là tính tổng hợp của nó, vừa là hội họa, điêu khắc vừa
là sân khấu. Sắp đặt và trình diễn, bởi thế, không chỉ diễn ra trong không
gian, mà còn diễn ra trong thời gian. Và, cuối cùng, tác phẩm sắp đặt và
trình diễn sau thời gian trưng bày là hết, không có tính cách vĩnh cửu như
hội họa giá vẽ. Nhìn Bùi Giáng từ nghệ thuật đương đại, một mặt thấy được
quan niệm về sáng tác và tác phẩm của ông đã đổi khác, vượt qua chủ nghĩa
hiện đại để bước vào hậu hiện đại, mặt khác thấy rõ ở thơ ông trò chơi ngôn
ngữ đang dần dần chiếm thế chủ đạo.
Chú
thích:
1. Bùi Văn Nam Sơn,
“Vài nét về Bùi Giáng”, in lần đầu 1990, in lại trong Bùi Giáng, trong
cõi người ta, Lao Động và Trung tâm Văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây, 2008,
tr.166.
2. Có thể xem các bài
trên ở Đặc san Hợp lưu tưởng niệm Bùi Giáng số 44, tháng 12/ 1998,
hoặc sách Bùi Giáng, trong cõi người ta (sđd).
3. Bùi Giáng thường
cật vấn bản thân bằng cách “tra tấn” tên mình như Bùi Giáng, Bùi Báng Giúi,
Bùi Báng Giùi, Trung Niên Thi Sỹ, Đười Ươi Thi Sỹ…
4. Tham khảo thêm:
J-P.Sartre, Văn học là gì? Nguyên Ngọc dịch, Hội Nhà Văn, 1999), ở phần
“Viết là gì?” cho rằng phản ánh sự vật có 2 kiểu: 1/ phản ánh sự vật như
chính sự vật của hội họa, thơ và 2/ phản ánh sự vật như biểu tượng của văn xuôi.
5. Nhà phê bình Đặng
Tiến không tin vào tư liệu này. Theo ông Bùi Giáng mới chỉ ra đến Hà Tĩnh
(Bài “Kỷ niệm” trong Mưa Nguồn làm tại Hà Tĩnh. 1951). Hơn nữa.
“Tại khu IV, khoảng 1948, chỉ có lớp dự bị Văn khoa, 7 học viên với Giáo sư
Đặng Thai Mai, làng Quần Tín Thanh Hóa”… (Vũ trụ thơ II, Thư Ấn Quán, 2008,
tr.143). Bằng chứng này cũng không hẳn thuyết phục. Có thể, vì một lý do nào
đó, Bùi Giáng không nói rõ ra. Nhưng giả thử đây chỉ là giai thoại thì đó là
loại giai thoại nói rõ bản chất chân thực của sự việc. Có những lời chứng
không thật ở bình diện sự kiện, nhưng lại thực ở bình diện tâm thức. Nhà văn
Minh Đức Hoài Trinh cũng đã học ở đó một thời gian rồi bỏ về Sài Gòn. Còn về
Đặng Thai Mai thì trong Con Đường Ngã Ba (An Tiêm, 1972, tr. 14),
Bùi Giáng viết: “Đạo thính đồ thuyết là tinh thể của con người mạt hậu. Nó
thông minh một cách thô thiển, nó vểnh tai ở ngoài đường và bi bô ăn nói ở
ngoài đường để tàn phá mọi ngã ba đường của bước chân đi từ nội tâm nội mật.
Nguyễn Bách Khoa là lãnh tụ bọn chúng. Phó lãnh tụ là Đặng Thai Mai (…).
Chúng xua quân chiếm đóng mọi bờ bến suy tư, chặn đứng mọi Ngã – Ba – Đường
của thi ca tư tưởng, gây tẩu hỏa nhập ma cho bọn thi sĩ (…).
6. Xem thêm: M.
Epstein, “Hậu hiện đại ở Nga (Văn học và lý luận)”, (trong Văn học hậu
hiện đại thế giới, những vấn đề lý thuyết, Hội Nhà Văn và TTVH và NNĐT, 2003,
tr 290): “Chủ nghĩa ý niệm Xô Viết có thể được xem như một sự kiện chấn
thương. Hệ tư tưởng Xô Viết đã bỏ bom xuống ý thức hệ bằng hàng trăm khuôn
mẫu (stéréotypes) gây tác động mạnh và lặp đi lặp lại không ngừng nghỉ. Những
khuôn mẫu này đã gây chấn thương cho vài thế hệ và ảnh hưởng mạnh đến văn học nghệ thuật, một nền văn học nghệ thuật
né tránh, phi cảm xúc, máy móc”.
7. Bùi
Giáng, Thi Ca Tư Tưởng, Ca dao, Sài Gòn, 1969, tr.102 – 103.
8. Trong Ngày
Tháng Ngao Du Bùi Giáng viết: “Hồi nhỏ, tôi được sanh ra và lớn lên
trong miền quê hẻo lánh. Chung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những
đám cỏ chạy suốt tuổi thơ. Làng tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc, cỏ mọc từ trong
làng ra ngoài ruộng, tới những cồn, gò, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau, tôi
tìm kiếm mãi một màu xanh không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn khổng
lồ” .
9. Có nhiều tư liệu,
kể cả chính Bùi Giáng, nói rằng ông chăn dê, chứ không phải chăn bò, và tự ví
mình như Tô Vũ chăn dê, nhưng thực ra ông chăn bò. Có thể Bùi Giáng đổi từ
“bò” sang “dê” không phải là lối “treo đầu dê bán thịt bò”, mà chủ yếu để lấy
tích Tô Vũ chăn dê như một ẩn dụ. Nhưng cũng có thể tâm thức lưu vong trên
chính quê hương sâu đậm đến mức khiến thi nhân tưởng mình thực là kẻ chăn dê
như Tô Vũ.
10. Trò chơi ngôn ngữ
(Sprachspiel) là khái niệm do triết gia Áo Ludwig Wittgenstein (1889 – 1951)
đề xướng, sau đó được nhiều triết gia khác sử dụng, đặc biệt là triết gia hậu
hiện đại Pháp Jean – Francois Lyotard (1924 – 1998) trong cuốn sách thời danh
của ông Hoàn cảnh hậu hiện đại (Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn
hiệu đính và giới thiệu, Tri thức, 2007).
11. Mai Thảo, “Một
vài kỷ niệm với Bùi Giáng” trong Bùi Giáng trong cõi người ta, sđd,
tr.240.
12. Mai Thảo, bđd,
tr.236.
13. “Nồi hầm” là một
từ người ta nói về văn hóa Mỹ, một văn hóa đa sắc tộc, đa bản sắc ở tầng nền
trải qua sự chưng cất của một thứ “nồi hầm” nào đó đã tạo ra sự thuần nhất
của cái gọi là “văn hóa Mỹ” ở tầng trên. Văn hóa Việt Nam, thật tiếc, chưa có
cái nồi hầm như vậy, mà chỉ có cái gọi là hầm bà làng.
14. Bùi Thuyên, thân
sinh nhà thơ Bùi Giáng, cũng nổi tiếng xuất khẩu thành thơ và thích chim gái.
15. Khái
niệm trẻ trong văn học trẻ, văn trẻ, thơ
trẻ thường dùng hiện nay chỉ tuổi tác một phần, nhưng chủ yếu chỉ những
sáng tác xuất hiện vào thời hậu – Đổi mới, có nhiều điểm khác biệt với văn
học chính thống, nhưng không hẳn là phi chính thống, vì thế mà nó vẫn được
chính thống thừa nhận (hẳn vì mong một ngày nào đó nó sẽ già!).
16. Khung cửa
hẹp, tiểu thuyết của A.Gide do Bùi Giáng dịch.
17. Xem Alain
Boutot, Heidegger, PUF, Paris, 1989 (in lần 2 có sửa chữa).
Xem thêm “Bùi
Giáng, nhà thơ của các nhà thơ”
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét