Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2014

VCD yểu không?


NÓI CHUYỆN TỬ VI 
[TẠP CHÍ KHHB SỐ 23 RA NGÀY 06/10/1972] 

MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU CÓ “PHI YỂU TẮC BẦN’ KHÔNG?
(Cụ Quản Văn Chính, Cử nhân Việt Hán 25 bis Tự Đức-Saigon)

Trong số những độc giả đã gửi thư, hoặc đã lại tận nhà yêu cầu tôi viết tiếp về những điều căn bản cần được thấu triệt để có thể đoán trúng một lá số Tử Vi, tôi để ý nhất đến B.S Hoàng Đình Hiển, hiện đương là y sĩ giải phẫu tại Quân Y Viện Quảng Ngãi.

BS Hiển vừa mới có một cậu con trai, và khi lập xong lá số Tử Vi, ông hơi băn khoăn khi thấy cháu có Mệnh vô Chính Diệu. Nhiều sách và nhiều thầy Tử Vi cho rằng cung Mệnh không có sao chính (một trong số 14 sao của vòng Tử Vi, Thiên Phủ) đóng thì “nếu không nghèo tất chế sớm”.

BS Hiển nhờ tôi giải tỏa nỗi băn khoăn. BS có cho tôi biết thêm là hơn 10 năm nay, từ khi còn là một sinh viên IV-Y Khoa, ông vẫn cố gắng làm tròn nhiệm vụ và luôn luôn lấy cái lý tưởng “Cứu nhân độ thế” của các bậc lương y làm kim chỉ nam cho cuộc đời, thế mà không hiểu tại sao cháu bé lại Mệnh vô Chính Diệu?

Theo ông, đó là một điều hết sức phi lý, vì sách thường bảo rằng những người có Mệnh Vô Chính Diệu đều thường là con thứ, hoặc mẹ là vợ lẽ, nàng hầu.
Tôi đã nói với BS Hiển rằng: sách thường chỉ nêu những nét đại cương, còn người xem số phải đem kinh nghiệm ra đối chiếu và tham bác ngõ hầu tìm ra được một sự thật tương đối.

Kế đó, tôi có kê ra những lá số Tử Vi Vô Chính Diệu, mà người có số như thế đều:
1- Không phải là con thứ.
2- Không phải là con thứ thiếp hay nàng hầu.
3- Cũng vẫn khá giầu, có địa vị và thọ gần 70 tuổi.

Đó là trường hợp của một cụ sanh năm Mậu Tý (sanh năm 1888) và mất năm 1955, thọ được 68 tuổi, có 10 con, 5 trai và 5 gái, người nào bây giờ cũng khá giả cả.
Cụ sanh năm Mậu Tý, tháng 3, ngày 30, giờ Thìn, Mệnh Vô Chính Diệu tại cung Tí, có Đồng Âm cư Ngọ và Cự Nhật cư Thân chiếu vào Mệnh cùng với Tả Hữu và Xương Khúc.

Lá số Mậu Tý:

Như thế, Mệnh vô Chính Diệu đâu có “phi yểu tắc bần”. Cụ này lại là con đầu của một gia đình trung lưu. Nhờ được cụ thân sinh thức thời, khéo uyển chuyển để thích nghi với tình trạng đất nước vào những năm đầu của thế kỷ thứ 20. Cụ Mậu Tý vào năm 1910, năm cụ 22 tuổi, đã bỏ bút lông, chuyển sang học quốc ngữ và Pháp ngữ, nên khi chế độ thi cử bị Chính phủ Bảo Hộ bãi bỏ vào năm 1918 tại Bắc Việt để:
“Ông Nghè ông Cống cũng nằm co,
Ước gì đi học làm ông Phán
Tối rượu sâm banh, sáng lại sữa bò”
Thì ông cụ Mậu Tý đã nghiễm nhiên làm một “Chef Comptable” tại một hãng buôn lớn ở Hải Phòng, có lương cai, bổng hậu, tậu được mấy cái nhà lớn, cùng nuôi được con học đến đại học!

Nhưng, nếu Cụ Mậu Tý Mệnh Vô Chính Diệu này chỉ là trung phú, và gần thượng thọ, thì lá số sau đây mới chứng minh được một cách thật rõ ràng rằng Mệnh Vô Chính Diệu mà vẫn đại phú quý và đại thọ. Tôi muốn nói đến lá số của một nhân vật đương thời tại Sài Gòn, mà hầu hết giới trí thức và giới sinh viên Luật Khoa đều biết đến. Đó là giáo sư đại học Luật khoa Vũ Quốc Thông có bằng Thạc Sĩ. Giáo sư Thông đã từng làm Bộ trưởng Bộ Y Tế thời cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, làm chủ tịch Tham Chánh Viện và Hội Đồng Quốc Gia Giáo Dục. Ông năm nay mới 56 tuổi, chữ “đại thọ” mà tôi dùng ở trên là chỉ việc hai cụ thân sinh hiện nay còn đại đường và đã trên 80 tuổi, chữ “đại quý” là để chỉ ông là anh của giáo sư Thạc sĩ Vũ Quốc Thúc, người vừa rời bỏ chức Quốc Vụ Khanh đặc trách Kinh Tế, Tài Chánh, và là thân phụ của 3 người con, mà một đã đỗ Dược Khoa, Tiến sĩ và một sắp học xong Y Khoa…


Đấy, một người bằng cấp cao như thế, gia đình như thế mà Mệnh vô Chính Diệu thì đủ cho quý vị độc giả thấy rằng không một câu “Phú” nào trong khoa Tử Vi Đẩu số cũng có giá trị tuyệt đối cả.
GS Vũ Quốc Thông sanh ngày 22 tháng 11, năm Đinh Tỵ, giờ Tý.

Lá số:

Sở dĩ ông đỗ đạt cao như thế, đạt được “công khanh” như thế, là vì ông gần được như “cách” ở trong sách.
Mệnh Vô Chính Diệu đắc tam Không hữu song Lộc, phú quí khả kỳ” tức là Mệnh không có Chính tinh tọa thủ cần phải có tam Không thủ và chiếu, lại cần có cả hai sao Lộc Tồn và Hóa Lộc thủ hay chiếu nữa mới có thể một ngày kia được giầu sang hơn.


Căn cứ vào câu phú này, tôi thấy GS Thông có được:
1- Nhị “không” tọa, chiếu là:
Tuần không ở hai cung Tí, Sửu và Thiên Không ở cung Thiên Di chiếu thẳng vào Mệnh, tức là ông được cách Mệnh Vô Chính Diệu đắc nhị Không. Cái “không” thứ ba là Địa Không, mà trên lá số này, đóng ở cung Hợi, cung Huynh Đệ, giáp Mệnh, có người lại cho rằng trường hợp của GS Thông lại còn tốt đặc biệt, vì “chính bất như chiếu, chiếu bất như giáp”.
 (theo thiển ý STK phần này có vẻ gượng ép. Thiên Không ở đây TVUD không dùng)

2- Song lộc triều viên
“Thân vinh quý hiển” nghĩa là Mệnh cung có Lộc Tồn và Hóa Lộc chiếu vào thì cuộc đời đỗ đạt lớn và làm nên sự nghiệp vẻ vang.
Áp dụng câu trên vào lá số của GS Vũ Quốc Thông, tôi thấy ông tuổi ĐINH nên Lộc Tồn ở cung Ngọ, cung Thiên Di, chiếu thẳng vào Mệnh, mà cung Thiên Di lại có Thiên Đồng, Thái Âm đóng, và theo lối “Đinh Nguyệt, Đồng, Cơ, Cự” thì Hóa Lộc và Hóa Quyền đều ở Thiên Di chiếu Mệnh cho nên lá số Tử Vi của Giáo sư Thông đúng là được cách: “Mệnh Vô Chính Diệu đắc nhị Không, hữu song Lộc, phú quý khả kỳ”.
So với lá số tuổi Mậu Tý nói trên thì lá số này thua lá số của tuổi Đinh Tỵ ở hai điểm:
1) Chỉ có Tuần Không ở Ngọ, Mùi chiếu Mệnh.
2) Không có song Lộc tọa hay chiếu Mệnh.
Nếu nay cho Triệt cũng là một “không” lấy cớ là người ta thường gọi “Triệt lộ Không vong” hay Triệt Không thì lá số Mậu Tý được Nhị Không, dù không có song Lộc, nhưng cũng không thua lá số của GS Thông quá nhiều, bởi lẽ có Xương, Khúc, Tả Hữu chiếu Mệnh trong khi của GS Thông thì có Hữu Bật không có Tả Phù, có Văn Khúc không có Văn Xương.
Nếu tiếp tục thảo luận thêm thì tôi lại thấy như sau:

Khi cung Mệnh Vô Chính Diệu hay quá xấu phải căn cứ vào cung Thiên Di mà đoán.

Điều này quan trọng lắm, nhiều sách đã nói đến, và kinh nghiệm cá nhân cho biết đôi khi tôi chỉ nhìn cung Thiên Di không cần nhìn vào cung Mệnh, mà đoán gần trúng mọi việc chính.

Lá số của GS Thông tốt đặc biệt như thế là do cung Thiên Di có Lộc Quyền, có song Lộc, có Đào Hoa, Thiên Không đồng cung (thông minh) học giỏi là ở hai sao sau này, mà nhờ có song Lộc, có Hóa Quyền nên ông không hoạnh phát, ông đi học mỗi năm một lớp rồi dần dần tiến đến địa vị cao sang, mà ông có tài, có học nên sự giầu sang, phú quý của ông phải bền, chứ không lúc nổi, lúc chìm. Sở dĩ, tôi nói thế là tôi vừa nói theo các sao, lại vừa nói theo tướng mặt và chỉ tay nữa!. Về các sao tôi nghĩ, số ông cung Mệnh không ngộ Địa Không, và Địa Kiếp vì tôi thường thấy chỉ có những lá số Mệnh Vô Chính Diệu mà có Địa Không, Địa Kiếp mới lên một cách đột ngột, để rồi cũng xuống một cách quá bất ngờ.
Lại nữa, Không Kiếp tọa thủ Mệnh Viên, thì người đó không khỏe mạnh mấy. Đằng này, nhờ là sanh giờ Tý, mà Mệnh đóng tại cung Tý nên GS Thông người trông thật phúc hậu, đẫy đà với đôi má dày, tức nơi Địa Khố sung mãn, tức là số giàu có lớn.

Bây giờ chỉ còn xét xem GS Vũ Quốc Thông sẽ thọ được bao nhiêu?
Trước hết, nếu hai cụ thân sinh ra giáo sư đã trên 80 tuổi mà còn đại đường, thì GS cũng hi vọng được thọ lắm. Tôi xin đan cử một tỷ dụ để chứng minh rằng Mệnh Vô Chính Diệu không những là đại phú, mà còn đại thọ, hay thượng thọ nữa. 

Cách đây hơn 10 năm, ở Sở thú tôi đã được gặp một ông cụ đầu râu tóc bạc, cho tôi mượn quyển sách Tử Vi bằng chữ Hán, trong đó có ghi một lá số Vô Chính Diệu thọ đến 92 tuổi.
Đó là lá số tuổi Đinh Hợi, tháng 9, ngày 20, giờ Dần. Mệnh lập tại cung Thân, Vô Chính Diệu, có Cự Nhật ở cung Dần và Đồng Âm ở cung Tý chiếu lên, “hư không chi địa”.


Lá số:

Tôi chú ý đặc biệt đến lá số này, bởi vì tác giả quyển sách đã không biết là lá số của ai nên đánh một cái dấu hỏi to tướng thay cho chỗ vẫn dùng để ghi tên người có số như Khổng Minh, như Hán Cao Tổ.
Vì thế, đến năm 1964, khi sang Đài Loan, tôi có đem ra bàn với các bạn đồng nghiệp tại Bộ Giáo Dục của T.H.Q.G, thì được biết đó là lá số của Tử Vũ mà phú Thái Vi có viết:
Tử Vũ tài năng, Cự tú, Đồng Lương xung thả hợp
Ông Tử-Vũ có tài vì Mệnh vô Chính Diệu ở cung Thân, có Cự Môn, Thái Dương (chứ không phải là Qủa Tú như có sách đã giảng) và Đồng, Âm. Cơ Lương chiếu, cùng với Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc. Số Đinh Hợi này thọ đến 92 tuổi là nhờ :
– Không có Điạ Không, Địa Kiếp chiếu vào Mệnh, Thân.
– Có Thanh Long ở cung Thìn hợp với tuổi Đinh, đi cùng Hóa Kị ở cung Dần chiếu vào Mệnh. Nhân dịp này tôi xin nói thêm rằng Cụ Ba La , rất thích những lá số “Thanh Long Thìn Thổ, Đinh Kỷ Âm Nam, gia hội Kỵ tinh, công danh toại mãn”. Cụ Ba La thường chỉ cho tôi biết là chỉ một cách này là đủ để giảng sự giàu sang, phú quý và thượng thọ của lá số tuổi Đinh Hợi.
Giáo sư Vũ Q. Thông cũng tuổi Đinh Hợi cũng có Thanh Long ở cung Thìn, lại có Hóa Kị ở cung Thân chiếu vào Mệnh như lá số tuổi Đinh Hợi nên tôi chắc GS Thông vừa về lá số, vừa về truyền thống gia đình, ắt cũng sẽ được sống lâu, giàu bền như Tử-Vũ.

Lời giải đoán trên cũng là sự trả lời những thắc mắc của BS Hiển cũng như những ai có lá số Mệnh Vô Chính Diệu. 

Theo tuvilyso.org


Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014

Chuyện Tử Vi



Lá số
Đoàn Nhữ Hài

 Đoàn Nhữ Hài là học trò trường Quốc Tử Giám. Vào niên hiệu Hưng Long thứ 6 đời Trần Anh Tôn (1298), tức năm Mậu Tuất, hoặc (1299) Kỷ Sửu. Một hôm ra chùa Một Cột chơi, gặp thầy Tử vi. Hài xin xem giùm vận mạng Thầy hỏi :
- Cậu sinh năm nào?
-Tôi tuổi Kỷ Mão, tháng 9 ngày mồng 1, giờ Mão.


Thầy bấm tay một lúc rồi nói :
-Mệnh cậu lập tại mùi, xương, khúc, kình miếu địa thủ mệnh. Lại được Nhật mão, Nguyệt tại hợi tịnh minh chiếu, thêm cách giáp Quang, Quý. Đây lÀ cách của đại thần phò tá Đế Vương.
Năm nay Đại hạn của cậu ớ Tị 
(chú thích: khởi đại hạn từ Huynh đệ?) có Hình, Tang, Cơ, Mã được Nguyệt chiếu. Tiểu hạn ở Thân, ngoại triều có Tham Vũ, Tướng, Quyền, Lộc, Tả, Hữu tất thành đại hỉ sự, đại hỉ sự sẽ đến một cách bất ngờ. Khi cậu bị ngựa đá hoặc cắn thì là khi công danh tới đấy.

 Hài mừng lắm trở về lo học hành, tháng sau trong kỳ thi khảo hạch của trường Quốc-tử giám, Hài bị trượt vì văn ngông nghênh, kênh kiệu quá bài của Hài bị đánh trượt vì ngông nghênh quá. Hài tức lắm, ra chùa Một cột tìm thầy Tử vi để đập tráp vì tội nói láo. Nhưng thầy Tử vi phân trần:
-Tôi chỉ nói năm nay cậu có hỉ sự, tôi đâu có nói cậu thi đậu? Đây tôi cho cậu biết: ngày 13-6 này cậu sẽ gần Thiên Tử.
- Nếu đúng như lời thầy thì tôi sẵn sàng nghe lời dạy bảo.
-Thế thì tốt quá. Ngày 13-6 này cậu còn hoạnh phát tài nữa. Vậy cậu phát bao nhiêu xin cho tôi một nửa. Sau này ở địa vị cực cao quý, cậu phải thương yêu muôn dân.

Hài đồng ý, về nhà. Đến đúng ngày 13- 6 không thấy gần vua như thầy Tử vi nói. Hài xách gậy đi tìm ông thầy đánh về tội nói láo. Trên đường đi, Hài bị một người cỡi ngựa đụng vào té văng dưới đất. Người đó vội xuống ngựa đỡ Hài dậy xin lỗi rối rít.
-Tôi đi vội quá lỡ đụng tiên sinh. Xin tiên sinh bỏ qua cho.
Hài nhìn người đó thấy mặc quần, áo lót đội mũ phía sau ra phía trước. Chân đi bên phải sang bên trái, coi vẻ hốt hoảng. Hài bực mình hỏi :
-Nhà ngươi đi đâu?
-Tôi đi tìm cha tôi
Nguyên đó là nhà vua Trần Anh Tôn. Hôm đó vua uống rượu say mê mệt. Nhân tôn hoàng thượng bất thần về kinh, thấy con say, giận lắm để cây gậy thiên trượng lên mông nhà vua ngụ ý đánh đòn, rồi bảo các quan về Thiên Trường họp.

Lúc tỉnh rượu, Anh Tôn được cung nga, thái giám kể lại, sợ quá chụp mũ đội lên đầu. Trong lúc vội vàng, mới đội phía sau ra phía trước, quên cả mặc áo ngoài, đá chân nọ sang chân kia và đụng phải Đoàn Nhữ  Hài. Vua hỏi:
-Tiên sinh là ai?
-Tôi là Đoàn Nhữ Hài, học trò trường Quốc Tử Giám. Tôi đang buồn vì thi trượt đây.
-Tiên sinh biết chữ chăng?
Hài bực tức :
- Nhà ngươi điên chắc? Ta đã chuẩn bị thi Thái học sinh, thì phải thông Bách gia, Chư tử, Cửu lưu, Tam giáo, lẽ nào không biết chữ?
Vua Anh Tôn vẫn nhũn nhặn:
- Tiên sinh làm dùm ta bài biểu tạ tội với phụ hoàng ta, rồi ta bảo quan Quốc tử giám tư nghiệp cho tiên sinh đậu. Năm sau thi Thái-học sinh tôi sẽ lấy tiên sinh đậu Trạng nguyên, được chăng?

Đoàn Nhữ Hài vẫn chưa biết là vua, quát lên
Nhà người điên chắc? Muốn rụng đầu chăng? Nhà ngươi có biết rằng chỉ có một người được phép lấy trạng nguyên không? 

-Nhà ngươi là ai?
Vua Anh Tôn đáp :
- Tôi là vua

Đoàn Nhử Hài nhìn lại mũ người đó, thấyquả là vua, vội thụp xuống đất tạ tội. Người cỡi ngựa chính là vua Trần Anh-tông. Nguyên sau khi chiến thắng Mông-cổ, năm 1293 vua Trần Nhân-Tông nhường ngôi cho con là vua Trần Anh-Tông rồi đi tu. Vua Anh-Tông thường hay rượu chè say sưa. Nhân một hôm uống rượu Xương-bồ say quá nằm ngủ, thì Thượng-hoàng từ Thiên Trường về Thăng-long. Các quan trong triều không ai biết cả. Nhân-Tông thong thả xem cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Thái-giám dâng cơm. Thượng-hoàng không thấy vua đâu hỏi thái-giám. Thái-giám đánh thức vua dậy, nhưng vua say quá không tỉnh được. Thượng-hoàng giận quá bỏ về, lệnh cho các quan về Thiên Trường họp, có ý truất phế Anh Tông. Đến giờ Mùi, Anh-tông mới tỉnh dậy, cung nhân đem việc ấy tâu. Vua sợ quá không kịp mặc áo, nhảy lên ngựa chạy tới chùa Từ Phúc, thì đụng phải Đoàn Nhữ Hài. Hai người xuống thuyền về Thiên Trường. Dọc đường Đoàn Nhữ Hài làm tờ biểu dài hai ngàn chữ tạ tội. Nhưng Thượng-hoàng vẫn còn giận, không cho vào. Hai người phải quỳ ở ngoài. Các quan liếc mắt nhìn tờ biểu, thấy văn hay, truyền nhau đọc.
Thượng-hoàng nghe được hỏi:
- Văn ở đâu mà hay như vậy?
Các quan tâu rằng đó là bài biểu tạ tội của vua. Thượng-hoàng truyền:
- Đưa vào đây!
Ý ngài muốn nói rằng đưa bài biểu vào, nhưng các quan hiểu lầm đưa cả Vua và Đoàn Nhử Hài vào. Thượng-hoàng thấy sự đã rồi, đành tiếp biểu xem, thấy lời văn điêu luyện, thống thiết, bèn xá tội cho vua Anh-Tông. Ngài phán rằng:
- Ta đang cần một thiếu niên anh tài phụ tá cho con ta. Nay gặp tiên sinh ở đây
thực là may mắn.
 Hài trình việc gặp hòa thượng ở chùa Diên-hựu, được hòa thượng đoán trước sự việc. Thượng-hoàng phán:
- Khoa Tử-vi do Hoàng Bính truyền sang Đại-Việt, khoa này đâu có truyền ra ngoài dân dã? Hòa thượng xem Tử-vi cho tiên sinh đó là sư phụ của ta, tức Tuệ-Trung Thượng-sĩ đó (tức Trần Quốc Tung).
Hài nghe xong hoảng sợ, nghĩ hôm trước nếu mình gây với hòa thượng thì bị ốm đòn rồi. Bởi Tuệ-Trung là một võ học danh gia đời Trần. Thượng-hoàng hỏi số của Hài.

HÀi than dài:
- Không biết thân có ân phước gì mà gặp toàn những bậc Thánh chúa, Thánh tăng chỉ đường, chỉ lối vậy?

Thượng hoàng nói :
-Chẳng qua là số. Số tiên sinh cung Nô có Tham, Hồng, Đào, Quyền, Tả nên gặp may, duyên kỳ ngộ mà gặp chúa.
  Số của tiên sinh là số của bậc tể thần. Sau này làm nên sự nghiệp hiển hách. Nhưng tiếc rằng Đào, Hồng cư Nô, thì thế nào cũng xảy ra một chuyện bất chính trong tình trường, lại thêm Tham, Hình nữa thì thế nào cũng vì má đào mà sự nghiệp tan vỡ, chết vì nghiệp tình, đáng tiếc thay.

Vua Anh-tông tâu rằng:
- Thần nhi nghe nói căn cứ vào khoa Tử-vi có thể cải được số mạng. Thỉnh cầu phụ hoàng có cách nào cứu được Đoàn tiên sinh không?

Thượng-hoàng bèn xé từ bìa kinh Kim-cương viết mấy chữ “Tứ đại giai không, miễn tử” trao cho Đoàn Nhữ Hài. Tứ đại Giai không là chữ lấy trong kinh Kim-cương:
“Vô nhân tướng, Vô ngã tướng, Vô chúng sinh tướng, Vô thọ giả tướng, tứ đại giai không”. Nghĩa là không có hình tượng của người, của ta, của chúng sinh, không có cái gì lâu dài cả. Bốn cái đó đều là hư ảo..

Thượng-hoàng phán:
- Ta xem số thấy cái vạ vì má đào của tiên sinh sắp tới. Nay ta trao cho tiên sinh mảnh giấy này, khi bị nạn, có thể dùng nó để cứu mạng. Muốn giải cái nạn Hồng, Đào, Hình, Tham thì phải dùng đến Quyền. Nay ta viết chữ miễn tử tức là dùng Quyền rồi, phụ với Hóa-quyền đóng chung ở Tham-lang nữa. Muốn giải hạn Thiên-hình thì dùng đến Không-vong. Ta dùng bìa cuốn kinh Kim-cương, tức là dùng cái Không của đạo Phật. Như vậy mong có thể cứu được tiên sinh.

Trở về Thăng-long, vua Anh-Tông phong cho Đoàn Nhữ Hài làm Ngự-sử trung tán, đây là lần đầu tiên một người không đậu đạt gì, mới 20 tuổi được phong làm Ngự-sử trung tán. Người thời đó ghanh ghét làm thơ giễu Hài như sau:
Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhũ xú Đoàn trung tán. Có nghĩa là: Ôn câu cổ ngữ tại đài Ngự sử. Miệng của Trung-tán Đoàn Nhữ Hài còn hôi sữa.

 Sưu tầm



  

Giai thoại Tử Vi



Lá số
Huệ Túc Phu Nhân

   Huệ Túc Phu nhân là con út của Tống triều di thần Hoàng Bính, huý là Thủy Thiên . Khi Hoàng Bính tiên sinh còn làm quan tại triều Tống, thì phu nhân của tiên sinh đã sinh năm người con trai mà chưa có người con gái nào. Phu nhân thường than thở ước ao có được một người con gái. Tiên sinh có nói rằng :

  Ta nhất sinh khảo về Tử Vi thấy cung Tử tức có Lương Nhật tại Mão cung ngộ Khoa, được Thái Âm ở thiên môn chiếu sang, Lương Nhật thuộc Nam đẩu tinh tại nội mạnh hơn Nguyệt ở bên ngoài chiếu, thành ra sinh năm con trai liền . Nhưng Mão là âm cung, thêm Nguyệt chiếu thì thế nào cũng sẽ có một nữ tử quý lắm . Hạn của ta cũng như phu nhân, năm tới đều có số sinh con gái . Như thế thì phu nhân khỏi mong ước lâu .

  Một đêm, tiên sinh ngồi đọc sách tại thư phòng ,bỗng thấy một người con gái tú lệ khác phàm xộc đi vào trước sân nhà, tiên sinh bèn hỏi :
-Nàng kia là ai mà dám xông vào thư các của ta ?
Nữ nhân quỳ xuống ôm mặt khóc :
-Thưa đại quan, tôi bị tác oan . Tôi tên là Thủy, vốn là con của một nho sinh, khi đi qua khúc sông ngoài Tây thành bị tên phú hào tên Ngô Phượng cưỡng bức . Tôi cắn lưỡi tự vẫn để khỏi ô danh thất tiết . Nó bỏ xác tôi xuống đáy sông, cạnh cây phong ba chạc, xin đại quan soi xét .
Tiên sinh phán:
-Nàng đi cùng ta đến gập quan địa phương .

  Nữ tử chạy lại ôm lấy chân của tiên sinh . Tiên sinh giật mình tỉnh giấc mộng, coi lại là giờ Sửu . Tiên sinh bèn gọi kẻ tùy tùng gióng ngựa ra Tây thành . Đi đến khúc sông có cây phong ba chạc, sai tùy tùng xuống mò, qủa nhiên thấy xác chết còn tươi của người con gái tên Thủy trong mộng . Tiên sinh bèn truyền gọi quan địa phương đến giao cho điều tra . Tên Ngô Phượng bị bắt, khảo, xưng hết, bị án trảm . Tiên sinh sai liệm xác Thủy, chôn cất tử tế bên sông . Trên mộ có đặt tấm bia, thủ bút bốn chữ TRINH LIỆT THUẦN CHÍNH .

  Đêm đó khi về đến nhà tiên sinh mộng thấy Thủy đến qùy lạy :
-Tiểu nữ muôn tạ đại quan, nguyện xin đầu thai để báo đáp công ơn .

  Sau đó thì phu nhân của tiên sinh thọ thai . Năm Tân Dậu, tháng ba, giờ Dần, ngày 24 phu nhân sinh được một bé gái, tú lệ khác phàm . Đặt tên là Thủy Thiên.



  Tiên Sinh bấm số than :
-Cung số của ta, Thân tại Di cung ngộ Tham, Quyền, Đào, Hồng, Khôi . Sự nghiệp viên thành ngoại xứ . Số phu nhân ta Thân cư Phu Quân, thì đương nhiên bôn ba theo ta rồi . Trong năm con trai, người nào cũng Thân tại Di cung đến Thủy Thiên Thân cư Quan lộc ngộ Nhật, Tả, Khoa, Quyền, Khúc, Việt, quá tốt Như vậy thành danh nhờ ta và chồng nó sau này . Thế thì cả nha ta phải xuất ngoại mới thành danh . Ta trộm xem số của Hoàng thượng cùng chư Vương, Thái tử, Tam công, Cửu khanh, thấy vận cùng cả rồi, chắc là không khỏi vong quốc . Âu là ta mang cả tộc thuộc Nam di để khỏi nhìn thấy quốc phá .
  Phu nhân hỏi :
-Số của đứa gái này tốt chăng ? Lớn lên đẹp chăng ?
  Tiên sinh đáp :
-Đẹp lắm, “ Nhật Nguyệt, tinh minh hợp chiếu hư không, cư trung Khôi, Hồng, nam tất vi tể tướng, nữ tất đắc quý nhân sủng ái .
  Lại hỏi :
-Học có giỏi chăng ?
  Đáp :
-Thông minh gấp mười phu nhân, gấp hai ta . Vì được cả bộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Đào, Hồng, Khoa, Quyền, Lộc .
 Hỏi :
-Có gì xấu chăng ?
 Đáp :
-Ngặt vì Cơ, Nguyệt, Hỉ, cư Thiên Di, ngộ Hữu, Xương, Kị, Đà . Cơ, Xương ngộ Kỵ thì văn tài xuất chúng . Có Hữu, Hỷ thì may thêu đều giỏi . Song Đà, Kỵ thì danh không hiển được . 

  Mùa xuân tháng Giêng, niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 đời Trần Thái Tông (1257) Tiên sinh cùng gia tộc 1200 người tới biên ải xin lập nghiệp tại An Nam .

Thái Tông được tin báo, đón về Kinh cho tạm trú tại An ấp . Tháng 6 Thuỷ Tiên tiểu thư tiến cung, được phong Huệ Túc Phu Nhân . Khi phu nhân nhập cung thì từ tư thái, ngôn ngữ, cư xử khác phàm . Từ hoàng hậu đến cung nga, thái giám không ai mà không nể phục .

   Sưu tầm