Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2013

HÓA KỊ



MÂY LANG THANG
(VIẾT VỀ SAO HÓA KỊ)


Mây, sao còn bay mãi không quay về đây?
Sao còn lờ lững che ngang rừng cây?
Sao còn hờ hững với tôi từng giây?
Hay còn mơ nghĩ đến ai nào đây?

Mây, xin dừng chân đến bên tôi một đêm
Xin đừng bay chốn môi hôn thật êm
Xin đừng nghe gió dâng lên thật cao
Xin đừng ân ái với muôn vì sao…

Đời tôi đã xót xa nhiều cũng vì yêu
Niềm thương nhớ biết đến bao giờ làm mây quên lãng
Chào mây nhé, mây bay về, về phía trời cao
Ôi niềm ao ước, mối tình tha thướt như làn mây lướt.

Mây, mây buồn mây khóc mỗi khi vào mưa
Hay là mây nhớ mối duyên tình xưa
Khi tình chưa biết đớn đau là chi
Khi dòng nước mắt chưa hoen vào mi

Mây, mây còn phiêu lãng đến bao giờ đây ?
Mây còn ngơ ngác lang thang về đâu ?
Xin dừng chân nói với nhau một câu
xin đừng câm nín vơi nhau dài lâu

Đây là một bài hát ngoại quốc, tiếng Pháp là “Toi” (đọc là toa), có nghĩa là anh ơi, em ơi...Lời Việt hình như của Nam Lộc. Nhưng thật ra đây là bài country Đồng quê Mỹ có tên là A cowboy’s work is never done của Sonny &Cher.

Thôi thì, theo lời Việt Mây lang thang cho đúng nội dung bài viết.

“Toi” hay Mây ẩn tàng một tên gọi, có thể là Vân, tác giả dùng hình tượng mây để biểu thị một cái tên, về một người với tính chất chuyển động trôi nổi thật tài tình. Em như mây phiêu lãng, bay hoài không mỏi sao cưng; tưởng đôi lần thành mưa sẽ không còn bay nữa, nhưng nước mắt chưa hoen vào mi, em chưa biết khổ đau là gì nên em còn bay vô tư. Ta thì ngước mỏi cổ nhìn em bay đi bay đến mà choáng váng, cũng muốn được bay theo em. Bài hát miêu tả tâm trạng tình cảm phức tạp nhưng nhẹ nhàng đầy tính nghi ngờ pha chút hờn dỗi, và rất lãng mạn.

Vậy em là ai rứa “Toa”?
-Anh ơi, em là Hóa Kị đây. Hay ho gì mà đụng vào em chứ. Đụng vào em dễ sinh sự lắm. Muốn níu em lại anh phải có Khoa, Quyền, hoặc Thanh Long, Lưu Hà. Lúc đó anh sẽ thành rồng bay trong mây ngũ sắc huyền ảo, là cơ hội cho anh làm điều kì lạ tuyệt vời, hai ta thành Long Vân hân hoan mở hội “Hàng Việt Nam chất lượng cao”.

-Anh chẳng có gì ngoài con Thiên Không cả, được không em?

-Ái chà, được quá đi chứ với điều kiện không thấy mặt thằng Địa Kiếp, có thằng này nguy hiểm lắm. Nếu thế, anh là bầu trời mênh mông còn em là mây, tha hồ phiêu lãng trong trời anh, cũng là không ghét em đâu, không cấm em, không nghi kị em  mắc chi em lại ghét anh.

-Anh sợ là…

-Sợ là em đây, Hóa Kị đây. Ai thấy em cũng sợ cả.

-Đừng nói thế.

-Đừng cũng là ả này đây anh ơi. Vì thấy em nên anh mới nói:
Sao còn bay mãi không quay về đây? Mây còn phiêu lãng đến bao giờ đây? Cơ Phục Hà? Sao em Đào Lưu hồ hải mãi. Tới hạn Phục Binh nhớ quay về nhé.

Sao còn lờ lững che ngang rừng cây? Lờ lững là Đà Hư, chìm không chìm nổi không nổi, y như giả đò chìm vậy. Che ngang là Đà Kị.

Sao còn hờ hững với tôi từng giây? Hờ hững, biểu tỏ tình cảm lạnh lùng đó là Linh Tinh, Linh Kị tôi ghét sự lạnh lùng ấy lắm.

Hay còn mơ nghĩ đến ai nào đây? Câu này đúng là nghi ngờ. Tồn Tướng Ấn, còn nhớ về ai đó. Nếu nghĩ tới mà thấy ghét, thấy cay đắng thì thêm Kị.

Xin đừng bay chốn môi hôn thật êm Cự Phi Kị, bay tới đó ghét lắm, vì ghen mà nói thế, êm ái nổi gì với cái môi Cự Kị chứ.

Xin đừng nghe gió dâng lên thật cao Linh Xương Đà Kị đừng nghe theo lịnh đó vì Linh Kị còn là lịnh cấm, như cấm hôn nơi công cộng, cấm đậu xe, cấm đổ rác. Xương Kị cũng là đừng nghe, nếu nghe chỉ toàn lời đố kị, kì quái, ganh ghét. Xương Khúc Kị cũng là cách giấy tờ rắc rối, nhiêu khê đóng con dấu thôi mà cũng hạch sách, photo công chứng cái CMND thôi mà cũng chờ cả buổi; nghe kiểu này ức chế dễ làm điều bậy bạ mà..chết, nên sách xưa gọi Xương Kị là yểu mệnh
 Miêu nhi bất tú Nhan Hồi,
 Văn Xương ngộ Kị uổng đời tài hoa.
Miêu nhi bất tú, lúa chưa ra hoa đã héo lá úa tàn rồi. Thật ra không dễ yểu thế đâu, nhưng gặp rắc rối mà buồn thúi ruột thì có.

Gió là gì ta? Cái không thấy nhưng biết có, đúng không? Thiên Hư được chứ? Vậy Xương Kị Hư là đừng nghe lời hư ảo mà sinh hư sự.

Xin đừng ân ái với muôn vì sao, anh tưởng tượng dữ quá thành ra câu này thật khó nói, nhẹ nhàng thì Tướng Quân hay Thiên Tướng ngộ Kị, cấm yêu, đừng yêu, thêm Đào cho nó thấm đẫm ái ân; đừng trao gởi chi cả, ta ghét cái mặt đó lắm rồi.

Đời tôi đã xót xa nhiều cũng vì yêu, Tướng Khốc, nước mắt vì yêu, có thêm Kị là tình oan nghiệt đắng cay. Vì yêu mà thành oán ghét, muốn khóc mà khóc không được càng oán ức thêm. Tình đớn đau mà có uất hận thù oán là thêm Địa Kiếp. Qua đây, hãy nhớ cho gặp Tang Kị   là ngày giỗ đó anh; có thể là chiếc khăn sô cho một cuộc tình Tướng Tang Kị, một ai đó  mất, hoặc là ngày giỗ chạp của mình.

-Ghét em ghê.

-Thấy em tức là thấy ghét rồi. Em đi đâu người ta cũng sinh lòng ghen ghét, khiến em phải ghét lại. Thấy mặt em là người ta nhăn nhó như bị bao rồi. Người ta gọi em là đồ ám khí, ám tinh, thứ gây trắc trở, cản trở, cắn em một phát miệng ngậm đắng cay, em chỉ có hung họa, nhất là khi em mê si theo ai đó, hoặc ai mù quáng theo em liền bị gọi là Diêu Đà Kị, vì có em mà đời họ chìm lĩm trong bóng tối u mê, làm như em có bùa yêu không bằng.

Em là hình ảnh của nghi ngờ đố kị, của sự sai phạm, sai luật. Hình Kị là hình ảnh bất kì gã chính tinh nào cũng sợ, từ ông vua cho đến phó thường dân. Ôm bộ này nhẹ nhất là khắc khổ cực hình do bị hành hạ, nếu là con cái thường bị hình phạt roi vọt, học sinh thì dính điểm 0 còn bị phê vô lễ, vô giáo dục. Vợ chồng thì thấy trên giường sẵn sàng tờ ly hôn li dị. Quan chức dễ dính  hai chữ “duyệt, vào nhà đá”.

-Em nói khiếp quá!

-Đó, đó!! Khiếp cũng là em nhé! Khiếp hãi, kinh sợ, khiếp sợ, ghê quá, ớn lạnh quá!  Các từ tương đương như thế. Nên ghét ra mặt là Triệt Kị đó. Bộ này hãi lắm, nhất là mấy lão Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Tướng rất sợ. Lộ ra sự ganh ghét. Ghét mà bị bỏ, bị phế, bị cắt chia…vì coi thường điều cấm kị.

-Anh muốn…

-Muốn yêu em dài lâu chơ gì? Không được đâu. Liêm Tướng yêu dài lâu gặp Kị em đây là cái dài lâu ấy cực hình lắm; tù tội dài lâu thì có. Cô gái Liêm Kị khắc nghiệt lắm, yêu ai dễ hành hạ nhau lắm. Chữ trinh đáng giá ngàn vàng còn đâu anh ơi là anh.

-Không lẽ em chẳng yêu ai được sao?

-Có chứ nhưng phải có bằng Hóa Khoa, hoặc Quyền uy tín, và Cát tinh mới được. Như Vũ Kị là kì tài. Cơ Kị là khéo tay tài giỏi. Lương Kị là may mắn kì lạ. Đồng Kị là thần đồng. Tử Vi Kị là huyền bí kì ảo.
   Còn mấy lão Sát Phá Tham hoàn tòan bất lợi. Này nhé, Sát Kị sai lầm đố kị, ghét mà giết, giết lầm hơn bỏ sót. Phá Kị thường hát bài “Đừng bỏ em một mình”. Tham Kị tham lam đố kị, ham hố bị trách là tham lam kì quái. Nhiều ý lắm, tùy tình huống mà diễn thôi.

Các tuổi bị Kị biến hóa chới với:
Giáp:Dương Kị công khai đáng ghét, bị đàn ông ám. Ngày u ám, thấy là ghét, nên giương con mắt không nổi.
Ất:  Âm Kị bị bà ám. Đêm ám mộng nàng Hằng Nga móng nhọn đâm vào tim.
Bính:Liêm Kị theo dõi, moi móc, ả này thích dấu còng số 8 trong túi xách.
Đinh:  mụ Cự Kị lải nhải bài “Biệt ly, nhớ nhung từ đây, nhà này phải chia cho tui 100 cây”.
Mậu: anh chàng Cơ Kị khéo giỏi mà cũng đáng ghét vì cái gì cũng thắc mắc, đánh dấu hỏi. Lợi dụng cơ hội.
Kỷ: Khúc Kị loại cấm thư, thơ văn có tính phê phán. Đoản khúc lạ lùng.
Canh: Đồng Kị đứa bé lạ kì ta mong muốn nhưng chắc gì có. Vì tui ghét con trẻ đi chung lắm.
Tân: Xương Kị tiếng đàn mê hoặc, lẳng lơ gọi mời. Đàn bà con gái chớ nghe đờn Cò (ca dao) nhé. Kẻo lòng mềm yếu, mụ mẫm mà sinh bệnh hoạn.
Nhâm: chàng Vũ Kị kì tài đến kì quái. Như Hitler nhếch bộ râu mép cả thế giới điêu đứng.
Quý:Tham Kị ham vui, ham ăn mà bị ghét. Thưa bác sĩ, chút bì thư nhỏ mọn này để bồi dưỡng cho ngài uống nước giải khát, ừa, thế là ngài nhanh chóng tìm kiếm, thăm dò xem con vi trùng, vi khuẩn nào trên người bệnh nhân đang thoi thóp đã mấy hôm…

- Em ơi, anh thấy em đâu đến đỗi tệ. Vậy Hóa Kị nào đáng sợ nhất hả em?

-Anh cẩn thận ghê! Né nổi không đó? Này nhé: Kị Hình, Triệt Kị, Diêu Đà Kị, Tang Kị, Khốc Kị … như đã nói, các bộ sau đây cũng kinh lắm, nên né:

Đào Kị Kiếp: nghi kị mà tạo ra họa nạn. “Tham cư Đoài Chấn thoát tục vi tăng, Kị Kiếp lai xâm trần hoàn đa trái” tu cũng chẳng xong đành trở về trần tục kêu “ái, ái!!”

Kình Kị Hỏa: “Kình dương Hỏa Kị một bài, hãm mà thủ mệnh ấy loài ác tinh”.

Tuế Đà Kị: ngôn ngữ bất nghi (không tốt), nói lời cản trở có tính dụ dỗ. Thêm Cự Môn là “ Tuế Đà Cự Kị phận nghèo. Một thân lên thác xuống đèo không yên”.

Tồn Kị: cái này mang tính thị phi, ta thường nói “đồ trùm sò!” về người ích kỉ, keo kiệt hoặc là “đồ cứt sắt”. Bo của đáng ghét. Lượm cái gì cũng bỏ vào tủ cất.

Úi dà, mệt quá anh ơi! Anh bảo Xin dừng chân nói với nhau một câu. Xin đừng câm nín với nhau dài lâu. Thế mà em nói cả đoạn, cả bài rồi đó, hơn nữa em đứng lâu không yên. Em đi đâu nói nhiều dễ sinh nghi lắm. Có duyên hẹn lúc khác em trải lòng nhé, sợ anh nghe nhiều quá rối  rắm thêm.

 Suốt năm Quý Tị  này em tạm trú xứ Tham Lang, có bộ Kị Lộc chọc ghẹo, nhậu nhẹt, thách thức với chàng tham hám hạm ham chơi cho vui cũng chán rồi. Sang năm Giáp Ngọ, em hẹn lão Thái Dương chơi vài chiêu múa may giương oai, cho lão mù mắt chơi, em ghét cái ánh mắt dê xồm nóng hực như lửa cứ xoi mói cả ngày bực bội của lão lắm.

Thôi, anh dễ thương ơi! Chào anh nhé, mây bay về phía trời cao. Cự Dương, em Kị Phi… nhé!.

 Bái bai.








Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

THIÊN DI TỐI KỊ...



“Thiên di tối kỵ Kiếp Không lâm vào”

 Đây là một câu phú mà hầu như chả ai luận bàn, chả ai giải thích. Vì chỉ nghĩ là Di có Kiếp Không thì đi ra ngoài gặp xấu, cẩn thận trộm cướp tai nạn thôi. Hoặc cho cung Di là đối phương, đối phương bị Không Kiếp thì dính gì đến mình. Nhưng thực ra câu này ẩn chứa nhiều điều quan trọng.

Tại sao không phải là cường cung nào khác như Tài, Quan mà lại là cung Di. Nếu Di không là mình thì chả cần đặt ra câu đó làm gì. Nếu Di chỉ là đi xa thì thời xưa người ta vốn ít hoạt động, chỉ quanh quẩn làng xóm quê nhà, hiếm khi đi xa nên cũng không cần chú ý. Di rõ ràng phải là cái gì đó rất quan trọng với chính ta thì mới mọc ra câu phú nhấn mạnh như thế.

Chỉ vì Di sự biểu lộ của ta trong tương tác với hoàn cảnh. Di là tất cả các hành vi, động sự, tạo tác, giao dịch giữa ta với môi trường.

Di bị Không Kiếp là có hành vi tạo ra cái tiêu cực đen tối cho hoàn cảnh, là khi động sự chỉ chực làm bậy, là gian lận lừa lọc để thủ lợi, hoặc chỉ đơn giản để cảm thấy hả hê thỏa mãn vì đã làm được việc xấu, đã ”thể hiện” được bản thân mình.

Di là bản thân lộ ra khi tương giao với hoàn cảnh, bị Không Kiếp tức là chính mình có nghiệp chướng, có cái bất ưng để thiên hạ đều thấy. Đó là kẻ có điều xấu bị bộc lộ, hoặc gặp tai nạn từ môi trường, đi ra ngoài gặp xui xẻo.

Di là cung Thân thứ hai của mình, bị Không Kiếp là tự mình xây tạo chồng chất các nghiệp xấu, là bị nghiệp báo từ những hành vi của mình ngay trong kiếp này. Nghiệp chướng có nhiều loại, có những kẻ cả đời làm bậy nhưng chả làm sao, vì quả báo ở kiếp sau. Còn Di bị Không Kiếp là ngay kiếp này sẽ phải trả nợ nghiệp tức thì.

Cung Di giống như một cái túi nhân quả ta đeo chặt bên người. Mỗi hành vi, mỗi hiện thực ta tạo ra đều rơi vào cái túi đó. Di là một tồn tại chủ quan gắn với Mệnh nên mỗi người đều có cái túi riêng khác cho dù cùng sống trong môi trường y hệt. Những gì rơi vào cái túi đó sẽ không bao giờ mất đi, nó luôn dính vào ta và chỉ lộ ra lúc này hay lúc khác. Các khoa cận tâm lý hiện nay đã chứng minh được sự tồn tại của trường nhân thể, trong cái trường đó có những khu vực lưu trữ tất cả các hành vi của chủ thể, đó như là cái túi nghiệp tự tạo của mỗi người.

Di bị Không Kiếp là tự mình bỏ vào cái túi của mình những chổi cùn, giẻ rách, bùn đất, cặn bã. Tưởng rằng thế là vứt bỏ vào ngoại cảnh, nhưng thực ra chúng luôn nằm ở đó, chính chủ thể đến lúc thò tay vào túi lấy ra dùng!

Từ tính nghiệp quả của cung Di, ta có thể giải thích được một vài câu thành ngữ cổ mà các loại Phật, Chúa, Thánh nhân hay dùng.

Chúa: ”Ngươi nhận được cái gì ngươi đã cho đi”. Chỉ bởi vì cho đi là bỏ nó vào cái túi cung Di của mình. Cho hoàn cảnh nhưng Thân ta cũng nằm trong hoàn cảnh, nên cho cung Di cốc nước thì nước ấy đến lúc chính mình lại uống.

Khổng Tử: ”Cái gì không muốn làm cho mình, thì đừng làm nó cho người khác”. Làm gì cho ngoại cảnh thì cũng là làm với mình, cái điều tưởng như đã đẩy sang người khác ấy nhưng một lúc nào đó nó lại xảy ra với ta. Khi ta tương tác với ngoại cảnh, nó sẽ có cách để ”trở về”.

Phật bảo “một nắm muối ném vào bát nước có thể khiến nước rất mặn nhưng ném vào dòng sông thì chả làm sao”. Bát nước và dòng sông đều có thể coi như cung Di, cái hoàn cảnh nơi mỗi cá nhân đang ngụp lặn chìm trong đó để bơi lội, tìm kiếm cái gì đó cho riêng mình. Nắm muối chính là Không Kiếp, Di tối kỵ Không Kiếp vì thiên hạ đa phần chỉ có bát nước nhỏ. Mấy ai có được dòng sông để vô hiệu hóa được độ mặn.

Di bị Không Kiếp là gặp phải bát nước mặn, hoặc tự thả nắm muối vào bát nước của mình, để đến lúc chính mình lại uống.

Suy ra một trong các cách cải số chính là bơm nước ngọt vào trong cái túi cung Di của mình, để lỡ chỗ nào đó có bị nắm muối Không Kiếp thì ta vẫn còn nước ngọt ở chỗ khác để mà dùng. Đây chính là nguyên lý của luật nhân quả. Cho đi chẳng qua là tự bỏ vào cái túi của mình mà thôi. Nếu ta có túi nước cung Di thật rộng, thật sâu, nghiệp không thể làm ta chết khát !

Phật luôn khuyên con người đừng ích kỷ vì như thế là tự làm hẹp cái bát nước của mình lại, khiến nó có thể sẽ trở nên mặn chát khi lỡ gặp Không Kiếp.

Việc coi cung Di có liên quan chặt chẽ với mình trong mối quan hệ nhân quả là điều hợp lý. Tử vi vốn xuất phát từ đạo giáo, nó thể hiện quan điểm của đạo giáo không chỉ trong các sao phúc thiện mà còn ở các cung nào đó, một trong số đó là cung Di.

Như vậy câu phú ”Thiên di tối kỵ Kiếp Không lâm vào” ẩn chứa những nội hàm sâu xa, không hề đơn giản để chả có gì cần giải thích như xưa nay thường quan niệm.

Di bị Không Kiếp thì độ xấu có khi chả kém gì lâm vào Mệnh Thân. Chính chủ thể sẽ tạo ra cái tật nghiệp bất ưng tồi tệ. Đó là kẻ rải đinh ra đường để vá xe, là đứng đường chặn xe để vòi tiền, là bệnh nhân đang cần cấp cứu nhưng hỏi tiền đâu trước…

Tạo ra cái đen tối tiêu cực, đâu chỉ có Mệnh Thân !

Dịch học.




Thứ Ba, 19 tháng 11, 2013

mệnh-thân qua giờ sinh



MỆNH - THÂN QUA GIỜ SINH
VÀ MỐI QUAN HỆ SAO THÁNG



Một số sao Tháng và Giờ, qua cách an sao, ta thấy có một mối quan hệ tác động vào cung Mệnh và THÂN ở những vị trí bất biến. Từ đó, ta có thể lập được bản đồ Giờ sinh tương ứng :

     1. Sinh giờ Tý
THÂN Mệnh đồng cung. THIÊN HÌNH luôn luôn ở Tật. DIÊU+Y ở Huynh Đệ. TẢ PHÙ ở Phúc. Bất lợi các trường hợp Mệnh đóng tại Mộ cung, hoặc chữ TUYỆT trong vòng TRƯỜNG SINH, gọi là Tuyệt xứ, vì  gặp bố cục thường không hay.

     2. Sinh giờ Sửu
     THÂN cư Phúc. THIÊN HÌNH luôn ở Tài. DIÊU+Y ở Mệnh. TẢ PHÙ ở Điền. Dễ hưởng phúc từ cha mẹ, bà con dòng họ, nhờ Thân Mệnh ở hai bên Phụ mẫu.

     3. Sinh giờ Dần
   THÂN cư Quan. THIÊN HÌNH luôn luôn ở Tử Tức. DIÊU+Y ở Phụ Mẫu. TẢ PHÙ luôn luôn ở Quan. Dễ có sự phiền toái, xung đột với Phụ Mẫu và con cái.

    4. Sinh giờ Mão
   THÂN cư Thiên Di. THIÊN HÌNH luôn luôn ở Phối . DIÊU+Y ở Phúc. TẢ PHÙ luôn luôn ở Nô. Dễ đi xa, sống xa quê hương bản quán. Khắc tính với phối ngẫu.

     5. Sinh giờ Thìn
     THÂN cư Tài. THIÊN HÌNH luôn luôn ở Huynh. DIÊU+Y ở Điền. TẢ PHÙ luôn luôn ở Di. Anh em dễ  xung khắc. Khuynh hướng đi xa làm ăn.

     6. Sinh giờ Tị
     THÂN cư Phối THIÊN HÌNH luôn luôn Mệnh. DIÊU+Y luôn luôn ở Quan. TẢ PHÙ luôn luôn ở Tật. Dễ hình khắc với mọi người vì quá mẫu mực, nghiêm khắc.

     7. Sinh giờ Ngọ
     THÂN và Mệnh đồng cung. THIÊN HÌNH luôn luôn Phụ Mẫu. DIÊU+Y luôn luôn ở Nô. TẢ PHÙ luôn luôn ở Tài.
     Bất lợi các trường hợp Mệnh đóng tại tại Mộ cung, hoặc chữ TUYỆT trong vòng TRƯỜNG SINH, gọi là Tuyệt xứ, vì bố cục thường không hay.

     8. Sinh giờ Mùi
     THÂN cư Phúc. THIÊN HÌNH luôn ở Phúc. DIÊU+Y luôn luôn ở Di. TẢ PHÙ luôn luôn ở Tử. Dễ hưởng phúc từ cha mẹ, bà con nhờ Thân Mệnh ôm lấy Phụ mẫu.

     9. Sinh giờ Thân
     THÂN cư Quan. THIÊN HÌNH luôn luôn Điền. DIÊU+Y luôn luôn ở Tật. TẢ PHÙ luôn luôn ở Phối. Công việc có thể được hổ trợ từ phối ngẫu.

     10. Sinh giờ Dậu
     THÂN cư Di. THIÊN HÌNH luôn luôn Quan. DIÊU+Y luôn luôn ở Tài. TẢ PHÙ luôn luôn ở Huynh. Dễ đi xa, sống xa quê hương. Dễ mê muội vì tiền đưa đến hại họa.

     11. Sinh giờ Tuất
     THÂN cư Tài. THIÊN HÌNH luôn luôn Nô. DIÊU+Y luôn luôn ở Tử. TẢ PHÙ luôn luôn ở Mệnh. Dễ gặp cách Tả Hữu đơn thủ tại Mệnh ly hương sở nghiệp, dễ hình khắc với mọi người.

     12. Sinh giờ Hợi
     THÂN cư Phối. THIÊN HÌNH luôn luôn Di. DIÊU+Y luôn luôn Phối. TẢ PHÙ  ở Phụ Mẫu.. Mẫu mực, nghiêm khắc quá dễ gây khó chịu. Tả Phù đóng tại Phụ Mẫu là hợp lý nhất. Hưởng cách Tả Hữu giáp Mệnh.

Những nhận xét qua mỗi bố cục trên chỉ là phiến diện mang tính gợi mở. Qua cái khung cho ta thấy tính chất có khuynh hướng xúc tác như thế thôi. Cần kết hợp nhiều sao khác để luận giải rõ ràng hơn.

Lưu ý để nhớ nhanh các trục giờ, THÂN cư giống nhau. Ví dụ: sinh giờ Tý- Ngọ, THÂN và Mệnh đồng cung….Sinh giờ Thìn-Tuất, THÂN cư Tài….


STK st




Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

vợ chồng trong Tử Vi



Vợ chồng trong Tử vi

Đây là một bài viết khá thú vị của Dịch Học, từ thế kết hợp của các Chính tinh được tác giả phân luận mối quan hệ tương đối hợp lý của Mệnh cung và Phối cung. Giọng văn dí dỏm, ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc... (STK)

 Các sao trong Tử vi phân bố theo những qui luật nhất định, một trong các qui luật đó là cung Mệnh và cung Phối. Nhiều trường hợp hễ Mệnh có sao này thì cung Phối nhất định phải là sao khác, tức là các sao trong Tử vi yêu nhau rất bài bản !

Mệnh Thất Sát thì phối luôn có Thiên Tướng, Sát nóng nảy khắc nghiệt thì Tướng trung hậu hòa hoãn để bù lại. Tướng có cái thẳng thắn giống Sát nhưng tình cảm, khéo léo. Sát lạnh lùng giá băng nhưng gặp Tướng là “này em ơi em đẹp quá đi thôi, mắt rực tình xé nát tim tôi”! Vẻ hào hoa, phong lưu của Tướng là điều mà một kiếm khách thiện nghệ như Sát rất mơ ước.

Nhưng Tướng lại yêu Tham Lang, Tướng cầu toàn, khó tính nên thích Tham Lang khéo chiều, giỏi giao tiếp. Tham Lang vơ vào để bù lại tính công bằng, vô tư của Tướng. Tướng còn ưa đào kép phong lưu, Tham Lang cũng tham dục vô bờ, nên thành một cặp rất hợp.

Tham Lang lại luôn yêu Thiên Phủ, Tham giàu óc thực tế, trọng vật dục thì người yêu lý tưởng đúng là Phủ rồi. Bản thân đầy đào hoa tính, dễ rung tình thì cần tìm đối tượng bình ổn mà yêu. Phủ vừa có điều kiện vừa ôn hậu chính là mơ ước của Tham Lang. Trong các sao Phủ tốt hàng đầu, không như Tử vi là vua chung, Phủ trực tiếp quản lý tài sản, có tính vượng tài nên là đối tượng của nhiều sao. Tham Lang có lẽ là thợ săn thiện nghệ, vồ ngay Thiên Phủ làm phối ngẫu !

Nhưng Thiên Phủ lại chỉ yêu Phá Quân, điều này thật lạ lùng, kẻ hữu sản, tính cách thâm trầm như Phủ lại đi yêu Phá vừa xấu vừa nóng nảy, tự đắc. Phủ không cần tiền tài ở Phá nhưng có lẽ thích “cá tính” mạnh, ưa độc đáo mới lạ của Phá. Phá luôn mới mẻ, cập thời, có khả năng chủ động cao, thêm tính kiêu căng tự đắc, ưa tiêu xài để cân bằng lại tính ôn hòa, hữu sản của Phủ. Phá còn ham lao động, cần cù chăm chỉ nên càng hợp ý Phủ.

Phá Quân tự mình lại không yêu riêng ai. Lúc thì yêu Tử Vi, khi thì Vũ Khúc, Liêm Trinh. Tức là Phá tạp loạn, ghen ghét Tử vi chính thống nhưng thực ra vì Phá luôn mơ ước cái ghế của Tử vi, nên có khi lại lấy Tử vi. Còn Vũ Khúc kho tài Phá yêu để có ngân quỹ cho chiến dịch tranh cử lật đổ Tử vi là đúng rồi. Nhưng Liêm Trinh nghèo thế sao Phá lại yêu ? Đó là vì khi đó Phá cư Thìn Tuất đại bất lương, nên vì thế chỉ ôm được Liêm cơ hàn, các sao khác đều sợ mà tránh xa. Khi đi cùng chính tinh khác, như Vũ Phá, Tử Phá, Liêm Phá thì cung Phối lại luôn vô chính diệu, tức là Phá bản chất sân hận đố kỵ nên ông không ưa lựa chọn của tôi thì tôi cũng chả cho ông yêu ai, thế là đành lấy Vô chính diệu không cá tính, vô tâm vô địa để tha hồ chỉ huy lên mặt. Các cặp sao đôi của Phá đều xấu nên chỉ yêu được vô chính diệu là hợp lý vì VCD không đủ tầm nhận ra cái dở của cặp đó !

Thiên Cơ luôn yêu Thái Dương, kẻ cơ hội linh hoạt mưu mẹo thì thích ông triết lý bài bản, có uy quyền. Cơ như mưu sỹ đi tìm quyền lực mà nhờ cậy thì Thái Dương chính là hình ảnh mơ ước trong lòng. Cơ gặp Nhật lập tức rên rẩm, ôi ánh sáng của đời tôi là đây rồi, chả cần gì hơn !

Nhưng Thái Dương lại chỉ yêu Thiên Đồng, kỳ lạ thay, kẻ ưa triết lý lại thích cô bé vui vẻ đỏng đảnh, có lẽ để bù lại cái tính khắc nghiệt của bản thân. Nên ngày xưa các cụ đồ nho nhã thế mà rất ưa những trò tom chát, thích gái má phấn môi hồng, vì đó là cách để cân bằng lại mớ chữ nghĩa rối rắm trong lòng. Thiên Đồng chỉ cần tung tẩy phe phẩy cái áo mớ ba mớ bảy là Thái Dương xổ tung hết chữ nghĩa, lăn vào chết mê chết mệt. Ấy bao nhiêu chữ cũng chả hay bằng em đây !

Thiên Đồng chả yêu riêng ai, bản tính dễ thay đổi, lông bông vô định, đứng riêng thì yêu Vô chính diệu hoặc Thiên Lương, đi cặp với sao khác thì yêu chung người tình của sao đó. Tức là cô em xinh đẹp vui vẻ được Thái Dương rất yêu nhưng để em tự chọn thì em lại chả yêu riêng ai, vậy Thiên Đồng có tính đa duyên, dễ yêu, dễ kết hôn.

Thiên Lương luôn yêu Cự Môn, lại là sự bất ngờ, kẻ hiền lành đạo đức lại đi thích Cự Môn đa ngôn bép xép lắm lời. Lương ôn nhu, thành thực nên có lẽ thật thà thường thua thiệt, vì thế yêu Cự Môn đa xảo điêu trá để cân bằng lại. Cự mờ ám bất tường mà làm Lương yêu thì suy ra Thiên Lương óc xét đoán kém, không mạnh về tinh thần. Lương có thể là ông thầy giỏi lý thuyết hơn là tham gia vào các hành động thực tế.

Cự Môn lại yêu Thái Âm, kẻ đa ngôn giảo hoạt mờ ám cần có Nguyệt chiếu sáng để đỡ âm ám, rất hợp lý. Cự còn là sao cá tính cực đoan hay bất mãn nên cần Nguyệt mềm yếu nhu thuận, để khỏi xảy cãi vã mâu thuẫn, do Cự lúc nào cũng sẵn sàng tuôn hàng tràng những lời khó nghe.

Thái Âm chả yêu riêng ai vì Nguyệt bản chất đa cảm, ướt át, đa tình, dễ rung động. Tại Mão Dậu Nguyệt yêu Thiên Cơ nhanh nhẹn linh hoạt. Còn các vị trí đơn thủ khác hoặc đi với Thiên Đồng, Nguyệt chỉ yêu vô chính diệu, để tỏa sáng bản thân mình sang đối tác dù có khi đang mờ mịt u ám (Nguyệt cư Thìn, Tỵ, Ngọ). Từ đó suy ra Thái Âm chỉ yêu chính mình nhất. Nguyệt có tính mê hoặc, ánh trăng có ảnh hưởng rất mạnh đến sự hứng tình của nhiều sinh vật, điều này đã được khoa học biết đến.

Liêm Trinh có tính nghèo lại khắc nghiệt ít tình cảm nên tình ít, khi đi cặp với các sao khác Liêm yêu chung bồ ruột của các sao kia. Còn một mình ở Dần Thân thì Liêm yêu Thất Sát vì Sát cũng nóng nảy, mạnh mẽ. Sách vở cho Liêm có tính đào hoa, vậy tại sao tình lại ít, vì Liêm chính trực, lý trí mạnh mẽ nên không để tình cảm chi phối. Tình yêu của Liêm nặng vì nghĩa hơn vì tình !

Vũ Khúc không yêu riêng sao nào, đi cặp với Phá, Sát, Tham, Phủ, Tướng thì cung Phối là các sao tình nhân của sao đi cùng. Đi với Phá thì yêu Vô chính diệu, tức Vũ Khúc không có tình cảm rõ ràng, thêm tính khắc kỷ nên cô độc. Riêng tại Thìn Tuất đơn thủ thì Vũ yêu Thất Sát, y như Liêm Trinh, vậy Liêm và Vũ phải có tính cách gì đó giống nhau, đó là lý trí mạnh, là sự tiêu xài cẩn thận, yêu Sát vì Sát luôn rạch ròi rõ ràng, không sợ bị lập quỹ đen !

Tử Vi đế tinh thường đi kèm chính tinh khác, nên cung phối là tình nhân của sao đó. Khi đứng riêng một mình ở Tý Ngọ, Tử vi chỉ yêu Thất Sát, ngôi sao nóng nảy mạnh mẽ. Điều này thật kỳ lạ vì Thất Sát được tới 3 sao đơn thủ yêu, đó là Tử Vi, Liêm Trinh, Vũ Khúc. Vậy Sát phải có cái gì đặc biệt hơn các sao khác, đó là cá tính độc lập, chủ động, mạnh mẽ quyết đoán. Sát giỏi nghề thạo việc, đương đầu tốt với nghịch cảnh, chả bao giờ yếu đuối ngã lòng. Sát có sức sống mạnh, là một ưu thế trong đấu tranh sinh tồn, Sát hấp dẫn các sao mạnh mẽ giống mình.

Cuối cùng là Mệnh Vô chính diệu, tình như gió bay, yêu đương lung tung, chả có chủ kiến gì cả. Lúc thì yêu chính tinh, đó là Thiên Lương, Thiên Cơ, Vũ Sát, Liêm Sát, Tử Sát, lúc lại yêu vô chính diệu. Vô chính diệu hợp Nhật Nguyệt mà không bao giờ Mệnh vô chính diệu cung Phối là Nhật Nguyệt cả, điều kỳ lạ này càng cho thấy tính hạn chế trong đầu óc của Vô chính diệu. Nguyệt yêu nhất vô chính diệu để lợi cho cả hai, nhưng Vô chính diệu thì không biết thế. Trăng soi sân nhỏ làm khoảng sân sáng rực nhưng chính cái sân trống rỗng đó lại không tự biết thế là hay. Nguyệt in bóng nước lung linh tuyệt đẹp mà nước không tự biết, thay vì yêu trăng, nước lại mê mải với những bóng mây trôi ngang…

Tổng hợp lại, có thể rút ra một số qui luật đặc biệt. Mệnh có Tử Phủ Vũ Tướng thì phối luôn là Sát Phá Liêm Tham và ngược lại. Hai bộ sao mạnh mẽ hàng đầu này yêu nhau thắm thiết, vậy phải có cái gì tương đương nhau ở cá tính, sự mạnh mẽ. Và để bù trừ, các cặp sao đó cũng có những điểm trái ngược.

Bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương luôn chỉ yêu Cự Nhật, hoặc xen vào Vô chính diệu, sự nhu hòa thiếu cá tính mạnh mẽ của bộ sao này thể hiện cả trong tình yêu. Nhưng nếu vì thế mà không yêu Tử Phủ Vũ Tướng hay Sát Phá Liêm Tham thì thật kỳ lạ. Có lẽ vì tình yêu, hôn nhân xuất phát từ cái gì đó sâu xa hơn hẳn là tình cảm cá nhân của con người !

Tử vi cũng chỉ ra nguyên nhân của các mối tình tay ba. Rõ ràng là anh yêu tôi nhất nhưng tôi lại yêu người khác nhất. Sát yêu Tướng nhưng Tướng yêu Tham, Tham lại yêu Phủ, Phủ thì yêu Phá, cứ như đèn cù nó chạy vòng quanh.

Như vậy, việc phân bố sao Tử Vi vào Mệnh- Phối tuân theo các đặc điểm rất rõ ràng thể hiện qua các cặp sao, bộ sao. Từ đó suy ra con người trong xã hội theo quan niệm Á Đông cũng có những thể tạng khác biệt, có thể phân loại giống như khoa học phương Tây đang làm. Chỉ có điều Tử vi đã làm điều đó từ hàng ngàn năm trước phương Tây…

Tác giả: Dịch học





Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

LÁ SỐ TỬ VI LÀ GÌ?



Lá số tử vi là gì?




Vấn đề 1.

Vì sao gọi là lá số Tử vi, sao không gọi là lá số Thái Dương, Thái Âm,...., hay bất kỳ ngôi sao nào khác? Câu hỏi tức là câu trả lời vì ngôi sao Tử vi rất quan trọng....Vô luận đóng ở đâu thì bạn vẫn có một ngôi sao Tử vi riêng của mình. Dẫu không đóng tại mệnh, hay vòng hạn bạn không có được ngôi sao Tử vi tại chính cung (Đại hạn đang xét) thì trong tam hợp bạn đã và đang bước vào hạn Tử vi, ngôi sao Tử vi của mình. Do vậy, khi nhìn lá số hãy nhìn ngôi sao Tử vi - Nếu trong tam hợp mệnh mà bạn có Tử vi tức mệnh bạn đang có ngôi sao quan trọng này vậy!

Vậy Tử vi nghĩa là gì?

Trước khi bạn trả lời hãy tự hỏi mình Tên thật là gì? Một cái tên không chỉ đơn thuần là một âm thanh phân biệt để gọi và hình thành phản xạ có điều kiện: "A ơi! minh nhờ cái....." thế là A quay đầu lại!

Một cái tên chứa biết bao sự tình trong đó: vì kỳ vọng, vì yêu thương, vì đánh dấu một sự kiện, một hồi ức cho một cuộc tình đẹp, ..., và không loại trừ cả sự thù hận khôn nguôi (....) thì cái tên dẫu sang trọng hay bình dân, thanh cao hay thô lậu, thì cái tên A vẫn hàm chứa ý nghĩa nhất định. Và vô luận một ngôi sao bất kỳ trong lá số đều hàm chứa ý nghĩa luận đoán trong ý nghĩa của tên ngôi sao đó các bạn ạ, ví dụ: Thiên Cơ: có nghĩa là đá, là cơ hội, là số, là ....., Thiên Lương là mái nhà chủ trên cao, là bóng mát, là lương thực......

Vậy Tử vi có ý nghĩa gì? Các bạn thử tìm hiểu nhé! Sách vở đầy rẫy đó nhưng bỏ qua một bên đi, chỉ tìm hiểu ý nghĩa tên Tử vi mà thôi cùng các ngôi sao khác.

Vấn đề 2.

Nhìn lá số Tử vi tức là nhìn người có lá số, nhìn những tác nhân (cũng là người xung quanh). Các bạn có công nhận cùng tôi: không có gì phức tạp bằng con người cả. Một sự kiện, mỗi góc độ có một cái nhìn khác nhau...Khi luận đoán tử vi ở tâm thế một trái tim yêu thương tức là bạn đang sống trong nội tâm người ấy. Và việc này theo tôi rất quan trọng, một lời luận đoán dẫu trúng cũng không thay đổi được số mệnh của người ta. Nhưng một tiếng nói mà phát hiện trong ẩn tàng của lá số, phát hiện và cảm thông lại là nguồn sinh lực giúp người khác thêm vững tin và nghị lực mới là điều cốt yếu.

Lấy ví dụ:

Mệnh lập tại Dậu: từ đây đếm xuôi theo chiều kim đồng hồ bạn xác định được các cung là Phụ, Phúc.....Huynh đệ. Thông thường các bạn khi xét một cung, đó là:

- Mệnh tại Dậu .....> cho nhận xét.
- Phụ tại Mão ........>Cho nhận xét.
-.......cho tới đủ 12 cung…
Kết luận: là trật lất.

Mà phải là:
- Tổ hợp Mệnh Tài Quan, ở đây là Tỵ Dậu Sửu. Qua đó bạn hiểu lá số này thuộc cách cục gì? Ngũ hành Mệnh cho phép bạn biết Mệnh bạn có xu hướng "ăn" nhiều vào ngôi sao nào trong tổ hợp này (kể cả xung chiếu). Và cần suy xét cẩn thận khi Mệnh Là VCD.
- Xung chiếu của Mệnh là Mão (Cung Di).
- Nhị hợp của mệnh là Ách: Dậu và Thìn.
- Lục hội của Mệnh là Tuất (Phụ Mẫu)

Tương tự các cường cung khác, và bạn cho những nhận xét tổng thể của lá số người đó. Nhưng chưa đủ đâu:
- Đó là Âm Dương: Âm Dương ở đây rất quan trọng cho bạn hiểu lá số về sức khỏe, hôn phối, Cha Mẹ, con gái, con trai.....

- Đó là Tuần: đóng ở đâu thì vị trí đó (2 cung) trở nên quan trọng. Ví dụ: Tuần Âm là trong Nữ, nghiêng về phía Nữ, lợi cho Nữ giới....Hay bạn có Tuần cư Tài: là trọng tiền, Tài chính có xu hướng chỉ vào mà không ra....Tuần cung Di: có xu hướng thích ra ngoài hơn là ở nhà hay ngồi yên một chổ.

- Triệt: là sự xem thường, là hiểu biết, là tấm khiên bảo vệ, là Triệt lộ ra bao điều quý.....Ví dụ: Triệt Dương là xem thường Nam giới, không lợi cho Nam giới....và cả Trí Tuệ: sự thông tuệ nếu ở đây nhiều cát tinh. Hay một ví dụ khác: Triệt cung Nô là bạn không xem trọng bạn bè, hoặc ít bạn, .....

- Vậy cả Tuần và Triệt là thế nào?
- Cũng 2 Anh em Tuần và Triệt: xem thử Chính tinh đó thích Triệt hay không? Yêu thích Tuần hay không?

Ngoài ra: Đó là vị trí đóng của cung An Thân và Tứ hóa.

Vấn đề 3. Là xem hạn:

Đại hạn là Gốc, sau đó là Tiểu hạn và kế là hạn tháng, hạn ngày, ....hạn giờ.

Tiểu hạn:

Tùy tam hợp tuổi mà bạn biết khởi hạn bạn trong lá số ở đâu?
 Ví dụ: Tuổi Thân trong tam hợp Thân Tý Thìn lấy xung của cung Thìn là Tuất bạn ghi khởi hạn tuổi Thân là Thân tại cung Tuất: Dương Nam - Âm Nữ đi thuận (ví dụ Tiểu hạn Năm Canh Dần Ở Thìn) và Dương Nữ Âm Nam đi ngược (Tiểu hạn năm Canh Dần là ở Thìn)

Hạn tháng:

Tháng Giêng khởi từ cung Dần tùy can năm ta có can tháng và mỗi cung 1 tháng đếm Thuận. Ví dụ năm Canh dần khởi tháng Giêng là Mậu Dần, tháng hai là Kỹ Mão,.......Tháng Chạp là Kỷ Sửu…

Vấn đề là biết cách áp dụng ngôi sao di động: như là sự update bản đồ hàng năm của Google vào là số tỉnh của bạn. Và quan trọng:

Xem hạm một năm, một tháng, một ngày, đó  không chỉ là tổ hợp (tam hợp và xung chiếu) tại cung bạn đang xét. Mà là:

Muốn tìm hiểu sự chuyển động bạn vẫn phải nhìn cung Di. Con cái năm nay thế nào bạn phải nhìn cung Tử, Hoàn cảnh làm việc là có cung Quan, tai nạn ra sao bạn nhìn cung Ách....Tổ hợp Tam hợp của tiểu hạn (Xung chiếu, và lục hại) là tổng quát: bạn tìm hiểu thử xem năm nay tổng quát bạn sẽ có gì? sao di động nhập hạn từ đâu đến? (nguồn gốc của sao đó)....Nhìn một hạn không khác gì xem tổng quát một lá số mà giá trị gói gọn trong một năm, một tháng, một ngày.....

Thân ái,
LIÊN HƯƠNG




để có cái nhìn...




Để có cái nhìn tổng thể một lá số

 Khi luận giải 1 lá số tử vi để có cái nhìn tổng thể về 1 con người nếu chỉ xét cung Mệnh và tam hợp mệnh thì có đủ không? Và các cung khác có những cách đẹp mà không có trong tam hợp mệnh thì có nói lên điều gì về cuộc đời con người không?

Một lá số gồm 12 cung từ Mệnh Tài Quan, Phúc Di Phối, Huynh Đệ Điền Ách, cho đến Nô Tử Phụ tất cả đều liên quan mật thiết với nhau có tính biện chứng không tách rời. Ngay bản đồ phối cung của lá số cũng đã nói lên khái quát cuộc đời của một con người.

Con người là mối tổng hòa tương tác rất phức tạp, mỗi một giai đoạn cuộc đời là mỗi câu chuyện cần lưu tâm. Bé sống phụ thuộc vào Cha Mẹ: Cha Mẹ tốt con được nhờ, lớn lên một chút con người bắt đầu bước những bước chân đầu tiên vào đời: môi trường đầu tiên đó là trường học....thành nhân là tới giai đoạn chọn nghề, môi trường xã hội ngày càng tác động tới tính cách của con người: học hành, nghề nghiệp, bạn bè, đồng nghiệp…

Thêm một chút nữa là người phối ngẫu: con người trở thành một ông chủ trách nhiệm với xã hội thu nhỏ đó là vợ, con, Ông bà, dòng họ.....Rất phức tạp nào chỉ là Mệnh Tài Quan đâu!.

Hãy nhìn vào các Tam hợp:

-Mệnh là gốc rễ, là căn nguyên, là nguyên nhân - Biểu kiến của nó là Cung Quan, và sự thành tựu của Quan là Tài.

-Nhưng Tài Phúc xung nhau: sự tương tác này rất quan trọng nó quyết định sự may mắn, có phúc phần để hưởng hay không?

-Tam giác Phúc Di Phối: người phối ngẫu ta sẽ ra sao, tốt hay xấu? Phúc có tốt hay không, có giúp ta có duyên gặp được người chia sẻ, hay là gánh nặng...hoàn toàn do tam hợp này: Phúc Tốt, Di Tốt: nơi ta quan hệ bên ngoài, Phối tốt...chế hóa thăng hoa, hay phá cách đều do tam hợp này quyết định.

-Phối và Quan lại xung nhau: Chế hóa lẫn nhau tốt hay xấu khó nói lắm nhưng không thể tách rời nhau. Một người đàn ông thành đạt thì không thiếu một người vợ tốt tương trợ sau lưng là đây. Vì khi Vận hạn tới đây (Quan) thì cung Phối lại là xung: tốt thì được tương trợ, xấu thì không hợp tác được.

-Bạn sẽ thấy vì sao bất kỳ lá số nào Thiên Thương bao giờ cũng ở cung Nô. Vô luận cung Nô có tốt hay xấu: thì vận hạn tới đây đều mệt mỏi, bận rộn, lắm chuyện lo nghĩ. Đơn giản vì từ đây nhìn đâu cũng thấy người (...). Tuổi gì tới đây đều trên 50, con cái lớn, Ông bà đã vào tuổi xế chiều, mọi quan hệ bạn bè đã đi vào chất, con cái đang thành niên..... Từ đây bạn thấy cung Tử, Phụ Mẫu và bản cung là Nô Bộc, toàn là người và người! Hơn nữa Thiên Thương là ngôi sao có nghĩa là thương lượng, là ngôi sao bàn bạc lo nghĩ. Thương lượng, bàn bạc việc gì? Đó là thương lượng, lo âu, sắp đặt các mối quan hệ với: Nô; sắp đặt, âu lo tương lai cho con khi thành niên; nhìn về cung Phụ Mẫu mà lo nghĩ khi cha mẹ về già. Đâu đã hết, nhìn vào cung Huynh đệ là xung với ta (bản cung Nô): Anh em có hợp tác lo việc hiếu sự cùng ta hay không?

-Ngược lại với người vận hạn gặp cung Nô trước khi bước vào tuổi già thì sẽ gặp cung Tật Ách. Vì sao gọi là Tật Ách: đó là bao gồm Tật - Tai họa ta sẽ mang - nghiệp chướng ta sẽ lãnh. Thì còn đó là Ách: Ách quàng vào cổ. Vì đây ta thấy Điền cung: nhà cửa có yên ổn không, tới tuổi này có mảnh đất cắm dùi hay không? Đó là Huynh đệ tốt hay xấu. Và ngoài kia xung là Phụ Mẫu thọ hay yểu - Hay ta phải bỏ tất cả mà lo cho cha mẹ..... ? Ở đây còn có ngôi sao Thiên Sứ cầm cơ lệnh của họa tai sống và chết (?).

Chung quy lại: nếu qua đại hạn này ta sẽ trở về lại nơi trú ẩn của Tam giác Phúc Di Phối. Đây có thực sự là giai đoạn hưởng phúc cuối đời bên người phối ngẫu hay không - Tùy phúc phận, tùy vào hung cát tinh của lá số. Nếu tiếp tục thì kẻ vào cung Ách cho giai đoạn cuối đời gặp Chàng Thiên Sứ mà lo cho ngày mai đi qua cầu Nại Hà. Kẻ thì vào Nô cung đầy ắp người mà kiếm Anh Thiên Thương buồn thảm (...).

Cả hai con người đi xuôi (Dương) và ngược (Âm) kia khi ở Di cung đều thấy Mệnh cung xung. Ta trở về với cái nguyên sơ của bản Mệnh. Từ Di nhìn vào cung xung là Mệnh: người già như trẻ nít là phúc vậy.

Sách Tử vi ĐSTB của TTL có câu rất hay:
 Mệnh Cát hóa Hung bởi cung Tử cung Hung
 Mệnh Hung hóa Cát bởi cung Tử cung Cát

Hoàn toàn chính xác khi bước vào tuổi già mà con ngoan, cháu khỏe, ông bà đạt được chữ thọ, ta và người phối ngẫu đề huề....Phải chăng đây là Đại Phúc. Hay là bạn chọn công danh tuổi trẻ, tiền bạc dư thừa để khi về già con cái hư hỏng vì mình quá đam mê công danh nên bỏ rơi giáo dục, thiếu quan tâm bố mẹ, nay lắm tiền rồi nhưng các cụ nào còn sức khỏe để mà hưởng thụ, Vợ (Chồng) như kẻ thù vì tình yêu không bồi đắp! Muốn làm lại, ôi thôi! Tay đã run, gối đã mỏi, đầu óc thì đã già, thời gian không chờ đợi kẻ sai lầm. Mọi nguyên nhân hôm nay thành quả là : Quả xấu đành chịu không thể ép cây ra trái ngọt khi thiếu chăm bón.

Thọ hay yểu không quan trọng vì ta không biết được, không khống chế được nhưng ai cũng giống ai sẽ có điểm đến cuối cùng (...). Và vì thế, Mật Tông Tây Tạng có để lại một pháp môn tu học đó là: Tạng Thư Sống và Chết. Là sự hướng dẫn cách chào đón, sự chuẩn bị cho ngày cuối cùng (!) Có phi lý chăng khi không làm điều gì khác mà lo cho cái Chết trong an lạc (?). Không phi lý chút nào cả, đơn giản là ai cũng sợ chết dẫu người đó ở giai tầng nào trong xã hội. Chúng ta cầu Vinh nên sợ nhục, muốn cầm nắm mọi thứ nên sợ mất....Nhưng ai ai cũng sợ chết nhưng cái Chết sẽ đến cho bất kỳ ai, vô luận ở giai cấp nào! Và khi không sợ chết, chuẩn bị cho ngày ra đi như trẩy hội: vui vẻ chết khi cày xong thửa ruộng....thế là ta đã thể nhập và hiển lộ thực tánh bình đẳng - Đó là giải thoát sinh tử luân hồi mà nào có cao xa. May mắn thay!

Vài dòng tâm sự, ý nghĩ chợt đến thành chữ không chuẩn bị - Mong an vui.

 Sen Trắng







Gợi ý về...



GỢI Ý VỀ LUẬN GIẢI TỬ VI*


Thưa các bạn,

Như tôi đã trình bày rất nhiều, xem tử vi đòi hỏi một con mắt tổng hợp về sơ đồ phối cung (nhị hợp, tam hợp, xung chiếu, giáp, và cả lục hợp chiếu) và bộ Âm Dương. Các bạn thấy đó, khi nhìn vào cung Phối, Phụ Mẫu,....bạn không thể biết Cha, Mẹ, Vợ hay chồng cho đến con trai con gái nếu bạn không lưu tâm đến bộ Âm Dương .

Các bạn phải biết an lá số bằng tay (có thể không thuộc hết) nhưng phải biết, Vì không biết thì bạn có nghiên cứu bao lâu, thì cũng chỉ là i tờ Tử vi. Đơn giản không biết điêu cơ bản nhất thì không thể có kiến thức nền, không có cơ sở để nghiệm lý, không biết phần mềm này an đúng hay chưa?

Ngoài ra, không có cơ bản thì bạn không thể phân biệt đâu là kiến thức đúng, đâu là dị thuyết thế là cứ mãi đi trong rừng rậm, ai nói cũng nghe, ai nói cũng tin....không có cái riêng của mình.

Tôi cũng xin nói thêm một chút về Tử vi nương theo Duyên các bạn đang có ý thích nghiên cứu Tử vi xem qua cho vui: Các bạn đừng vấp phải sai lầm nhìn tử vi như dò từ điển khi dịch từ Anh sang Việt, tiên quyết khi dịch hay nói là phải dùng "cấu trúc câu", hay nói đúng hơn là ngữ pháp. - Trong văn phạm viết hay nói người ta thường phân tích đâu là Danh từ, túc từ, tính từ, đông từ....Danh từ hay đại từ nhân xưng chính là Chính Tinh, còn túc từ là bàng tinh (tôi không thích dùng từ phụ tinh, vì không có sao nào nhỏ, sao nào lớn cả. Tất cả đều có dịêu dụng của nó). Tử vi cũng thế, và "Ngữ Pháp Tử vi" không khác gì ngữ pháp nói và viết tiếng Việt.

Nói nôm na luận Tử vi như một bộ môn ngôn ngữ học, một từ (một sao) không thể thành câu (số mệnh) được mà phải là cả một cấu trúc mới diễn đạt thành hình mà diễn ý (luận tử vi). Và không có ngôi sao xấu ngay cả Không Kiếp khi hợp cách nó biến từ không thành có …
Sách Tử vi mà ta thường được đọc nào phải của Ông Tổ Tử vi (người sáng tạo ra Tử vi không phải là Trần Đoàn vì Ông ta chỉ có công san định lại thôi), huống hồ ở các sách Tử vi hầu hết không ghi rõ "nguồn".

Nếu ai cũng có thể qua sách, xem những gì sách trình bày như kinh Coran - Thế thì tử vi tầm thường quá phải không? Không có ngôi sao xấu, không có đắc hay hãm gì cả - Quan trọng là hợp cách.

Các bạn có biết: rất nhiều nhà Khoa học tài ba có Không Kiếp tại Mệnh không? Rất nhiều Bác sĩ có KK và Mệnh là Sát Phá Tham, không chỉ thế họ là những Bác sĩ giỏi chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo....Vậy ai đó có những ngôi sao mà các bạn cho là xấu - Thì hãy tự trung thực mình thực có xấu thế chăng? Có bạn thầm nói có, nhưng có bạn lại không? Và điều đó càng khẳng định một điều là không có CHÂN LÝ DẠNG QUY KẾT, KẾT TỘI VÔ CĂN CỨ NHƯ VẬY.....Vấn đề ở đây là cái nhìn tổng hợp như đã nói ở trên. Tử vi như là một phương trình nhiều nghiệm trong đó có tham số m (m: tùy thuận trí tuệ, sự tĩnh giác của người thụ hưởng) và còn là một phương trình phản ứng: A+B+C=D nhưng nhiều khi nó lại không như thế như hóa học có những chất gọi là chất trơ (một tổ hợp sao vô duyên, không giúp ích gì, không tác dụng gì).

Các bạn nói tới Phục Binh mà bỏ rơi Thiên Tướng, như nói tới Lộc Tồn mà bỏ Phi Liêm, như nói tới Thái Tuế mà bỏ rơi Thiên Hư, Bạch Hổ mà quên đi chàng Tang Môn....Ngòai ra Phục Binh là Phục Binh gì? Tướng đây là Tướng gì? Sao các bạn không nghĩ ngôi sao Phục Binh của bạn bị phá cách bởi sao khác mà vội phê phán nó là đồ....Có biết bao nhiêu người trở nên giàu có bởi một ngôi sao Phục Binh làm xúc tác.....Thật vớ vẫn còn có người khẳng định có Phục Binh tại Mệnh là người xảo trá.....

Nếu không bị phá cách, thì hạn ngộ bạn có Phục hay Tướng có nghĩa là bạn sẽ vì yêu thương mà phục vụ (Phục Binh) hay vì mến mộ mà Quấn quýt (Tướng Quân). Nếu ở đây có các sao chỉ di chuyển (Hà Phi Phục) và một đống cát tinh thì bạn ra đi để lại tiếng thơm và trở lại được ngưỡng mộ (vấn đề ra đi là một mệnh đề, trở lại cũng là một mệnh đề, ba chấm....phía sau là quyết định).

Bạn có biết năm yêu thương là gì không? Đó là Thái Tuế Tướng Quân, ngày yêu thương là Thái Dương Tướng Quân, người già yêu thương mình là Thiên Phủ Tướng quân....

Vậy Thất Sát Tướng Quân là đánh mất tình yêu, Phá Quân Tướng Quân là bỏ phí tình yêu.....Và vì Phục là đối tác hay là ta ở vị trí xung (Phục Binh) thì còn gì nữa....Tình yêu chỉ còn một nỗi đau, vì phục vụ kẻ phản bội có khác gì nuôi Ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà....Hay Cự Nhật có Phục Không Kiếp là người đàn Ông ra đi không trở lại - Nghĩa là chết!

Tử vi là phương tiện miêu tả nghiệp lực của con người. Mà nghiệp lực do đâu mà có? Do chính chúng ta tạo ra đó! Ai mà quyền năng to lớn đến thế mà có thể ban phát hạnh phúc hay khổ đau cho chúng ta? Nếu có quả thật cũng không có thì giờ, đủ trí nhớ, mà làm việc ban phát đó! Chỉ có hiểu và liễu ngộ như thế thì may ra bỏ được cái CHẤP, cái lọng vẽ hoa có sẵn trong sách và cuộc đời. Ngũ hành hay là gì đi nữa chỉ là phương tiện không phải là đích rốt ráo. Mà đã là phương tiện, thì qua sông cần thuyền, đi đường bộ thì cần xe....vác theo chi cho nặng vậy.

Việc xem tử vi, luận giải một lá số được gọi là TỐT hay XẤU còn tùy thuận vào nhân sinh quan của người Luận và người có lá số. Và chính cái NHÂN SINH QUAN đó vô tình tạo ra MỘT LÁ SỐ THỨ 2 của đương số. Ngoài ra theo quan điểm của tôi: không nên bị ám ảnh tới cái gọi là đắc hay hãm của các chính tinh - Tiên quyết nằm ở hóa khí của sao và sự hợp cách của các sao trong sự chế hóa lẫn nhau. Có sao gặp nhau thì VUI MỪNG, có sao gặp nhau chỉ mang họa VÌ BUỒN (VD: Tướng gặp Ấn thế là hợp cách vì tạo thành các Binh Hình Tướng Ấn, nhưng Cự Môn, Phá Quân mà gặp các sao này thì BUỒN!).

Trong Tử vi, trước hết là CÁCH CỤC, và sau đó là các TRỢ CÁCH và PHÁ CÁCH. Một điều tối quan trọng là KHÔNG CÓ MỘT NGÔI SAO NÀO GỌI LÀ NHỎ!. Nhiều khi chỉ một ngôi sao tưởng chừng nhỏ nhưng đủ sức phá cách tất cả một lá số tưởng chừng là tốt(...).

Các bạn Nữ cần có một tô Phở để phục vụ Chồng con - Nếu ứng với Tử vi ta tạm gọi cách cục ở đây là "Cách cục Phở" (Tôi không biết nấu ăn do vậy những gì tôi liệt kê có thể không đúng). Vậy nguyên liệu chính của Tô Phở Bò là Thịt bò phải không? Vậy Chính tinh của "cách cục Phở" là chính tinh Thịt Bò cùng các nguyên liệu để định nghĩa món súp này thành Tô Phở ngon là gì ngoài Thịt Bò? Bạn cần nước dùng từ bàng tinh "xương bò", cần thêm các sao khác là Hồi, Quế cho đến các rau mùi, đương nhiên không thể thiếu các gia vị khác như mắm, muối, ....

Có đủ nguyên vật liệu rồi, việc còn lại là nghệ thuật kết hợp "Đúng cách", gia vị đúng liều lượng, nghệ thuật khống chế lửa, cho đến thời gian trước sau cho từng nguyên liệu.....Để ra được Tô Phở ngon có nghĩa là đúng cách cục, là đắc địa....Nhưng Tô phở đó sẽ dùng vào lúc nào thì hợp thời? Bạn nấu ra nhưng chồng bạn bận đi nhậu, xỉn về sợ vợ nhằn cố ăn thế còn gì công lao của người nấu....Vậy khi tất cả đúng rồi còn đợi hợp tình hợp cảnh là Thời và vận, là ngũ hành bạn (chỉ xét cung Mệnh) có hợp với chính tinh đó hay không? Hay nói nôm na người dùng có thích ăn Phở hay không?

Chưa xét tới việc Chồng đi về trễ, bạn buồn trong lòng, đi ngang bếp trước khi dọn lên bạn cho thêm "một chén muối" - Đương nhiên ở đây muối không phải là Sát tinh vì ăn mặn không chết! Còn thù nữa, bạn cho Thạch tín, thuốc diệt Chuột gì đó (Là Không Kiếp) thì dẫu Chồng bạn là ai thì cũng có cơ hội "Cắt hộ khẩu" - Đúng không?

Kết luận: để có Tô Phở ngon thì tất cả các yếu tố hình thành nên tô Phở đều quan trọng không hơn không kém. Ứng vào trong Tử vi cũng thế không có sao quan trọng và sao kém quan trọng vậy!

Bàn Tử vi thì biết bao giờ mới hết việc để nói, ngay cả việc xây nhà là tốt: nhưng xây nhà thì tốn tiền; Sinh con thì mệt nhưng đâu bằng khổ công nuôi con; Công danh, học tập thì cố còn được nhưng con cái là món quà lớn của trời đất, là chiếc cầu nối bền vững giữa đàn ông và đàn bà có tiền nhiều liệu có muốn là được đâu!....Vậy cái nào là the first one trong lựa chọn (?).

Lá số x nào đó do cái Tham Sân Si chính ta tạo ra - Khó thật! Nếu ta chọn bình an hay chọn sóng gió - Lá số là hệ quả chứ không phải sẽ là hạt giống bạn sẽ gieo....

Liên Hương

(*) Tiêu đề bài viết do Satrungkim đặt, chị Liên Hương là đồng môn lớp anh chị, chắc cũng thông cảm





Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013

cây số




Cây số
satrungkim



Một hai cây sô tưởng gần
Tung tăng bước nhảy vô ngần trẻ thơ
Chục cây số dần xa bờ
Phố vui chưa biết dại khờ người đông
Trăm cây số gánh phiêu bồng
Tình yêu nặng quá xệ hông anh rồi
Ngàn cây số chân rối bời
Tiến lên khập khễnh, bước lùi trật xương
Vạn cây số mắt khôn lường
Đeo bao nhiêu kính mù đường bấy nhiêu
Triệu cây số cuộn thu chiều
Vòng quay quét lá lỡ liều cuộc chơi
Hỏi em cây số nào vui
Nhã ga một tí nụ cười hê hô
Sáu mươi niên tuế ngây ngô
Cà tàng cà rịch lõa lồ nhân gian
Bánh xe mòn xẹp dốc làng
Rách bươm đại lộ còn ham hố gì
Nhấn ga đạp thắng tại vì
Còn cây số mọc còn đi tìm đường 










Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

Ns. VĂN CAO


Satrungkim có lời tặng ông

Ông Văn Cao ở trên cao
Tận Thiên Thai với những ả đào ngon tơ
Về trần choáng váng bất ngờ
Ngày đêm say xỉn đàn chờ Thiên Thai

Satrungkim vẽ Văn Cao (bằng đồ họa)
  



Tiểu sử

   Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray (nay là phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền), thành phố Hải Phòng, nhưng quê gốc ở thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Xuất thân trong một gia đình viên chức, cha của Văn Cao vốn là giám đốc nhà máy nước Hải Phòng. Thuở nhỏ, Văn Cao hoc ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành chung. Ông làm điện thoại viên ở sở Bưu điện tại Hải Phòng, nhưng được một tháng thì bỏ việc.

  Văn Cao kết hôn cùng bà Nghiêm Thúy Băng năm 1947, có với nhau 5 người con, 3 trai đầu và 2 gái cuối.

   Cuối những năm 1930, tân nhạc Việt Nam ra đời. Ở Hải Phòng khi đó tập trung nhiều nhạc sĩ tiên phong như Đinh NhuLê ThươngHoàng Quý... Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng Tô VũCanh ThânĐỗ Nhuận... và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay là Buồn tàn thu vào năm 16 tuổi. Cùng nhóm Đồng Vọng, Văn Cao còn sáng tác một số ca khúc hướng đạo vui tươi khác như Gió núi, Gò Đống Đa, Anh em khá cầm tay. Cũng trong thời gian ở Hải Phòng, Văn Cao làm quen với Phạm Duy, khi đó là ca sĩ trong gánh hát Đức Huy. Phạm Duy chính là người đã hát Buồn tàn thu, giúp ca khúc trở nên phổ biến. Năm 1940, Văn Cao có một chuyến đi vào miền Nam. Ở Huế, Văn Cao đã viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, được coi là bài thơ đầu tay.

   Năm 1942, nghe theo lời khuyên của Phạm Duy, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant - nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền - và theo học dự thính tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Văn Cao còn làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy. Năm 1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: Cô gái dậy thì, Sám hối, Nửa đêm. Đặc biệt tác phẩm Cuộc khiêu vũ những người tự tử (Le Bal aux suicidés) được đánh giá cao và gây chấn động dư luận. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của Văn Cao không bán được. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn. Cùng bạn bè, Văn Cao thường phải đứng bán các tác phẩm của mình trên các đường phố Hà Nội, Hải Phòng.

Sự nghiệp âm nhạc

   So với hai nhạc sỹ Việt Nam nổi tiếng khác là Phạm Duy có khoảng 1000 ca khúc và Trịnh Công Sơn với 600 ca khúc, Văn Cao sáng tác không nhiều. Sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao được chia làm hai mảng chính: tình ca và hùng ca. Ngoài ca khúc, ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông  Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa... tổ khúc giao hưởng Anh bộ đội cụ Hồ...

Tình ca
   Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên, giống như những nhạc sỹ tiền chiến khác, Văn Cao viết các nhạc phẩm trữ tình, nhưng ít ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng phương Đông. Từ ca khúc đầu tay Buồn tàn thu, Văn Cao đã sử dụng ngũ cung để viết về một hình ảnh quen thuộc trong nghệ thuật châu Á: người phụ nữ đan áo ngồi chờ đợi. Sau Buồn tàn thu, ông còn viết hai ca khúc khác về mùa thu là Thu cô liêu và Suối mơ. Trong đó Suối mơ vốn là một đoạn của bản Trương Chi 1 được Văn Cao phát triển thêm và cùng Phạm Duy hoàn tất. Bản Trương Chi nổi tiếng sau là Trương Chi 2.

   Bên cạnh đề tài mùa thu, Văn Cao cũng viết hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là Cung đàn xưa và Bến xuân. Nhạc phẩm Bến xuân có sự tham gia của Phạm Duy, nhưng về sau Văn Cao viết lại lời mới cho ca khúc này và đặt tên Đàn chim Việt. Ngay từ những ca khúc đầu tiên, Văn Cao đã giành được thành công. Buồn tàn thu được biểu diễn trên các sân khấu hát rong và trên Đài Phát thanh Sài Gòn trong những năm 1944-1945, lúc tân nhạc còn mới phôi thai nên trở nên phổ biến. Suối mơ, Bến xuân được Phạm Duy đánh giá là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam.

   Nhưng hai tình khúc của Văn Cao được đánh giá cao hơn cả  là Thiên Thai và Trương Chi. Bản Thiên Thai được nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế in năm 1944, Văn Cao tự nhận mình là "Người sông Ngự", ghi: "Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người sông Ngự đã lạc mất cảm xúc rồi!". Lời bài hát được đề là của Văn Cao, Hoàng Thoái. Phạm Duy cho rằng Hoàng Thoái là bí danh của Đỗ Hữu Ích, một người bạn của Văn Cao. Sử dụng ngũ cung để viết về một câu chuyện cổ, Thiên Thai có tới 94 khuông nhạc, vừa mang tính trường ca, vừa mang tính nhạc cảnh. Năm 2001, khi phim Người Mỹ trầm lặng được thực hiện, Thiên Thai được sử dụng làm nhạc nền của bộ phim. Giống như Thiên Thai, Trương Chi cũng dựa trên tích chuyện cổ nhưng không phải là một truyện ca mà manh tính tự sự. Ca khúc này còn một đoạn lời nữa mà các ca sĩ thường không trình diễn: Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ, Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ.... Hình ảnh Trương Chi trong bài hát cũng thường được so sách với hình ảnh của chính Văn Cao.

Hùng ca
   Ngay từ khi còn trong nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng, Văn Cao đã viết các ca khúc hướng đạo khoẻ khoắn. Cũng giống như các nhạc sĩ tiến chiến khác, Văn Cao sử dụng đề tài lịch sử để thể hiện tình ái quốc trong Gò Đống Đa, Hò kéo gỗ, Bạch Đằng Giang... Ngoài Tiến quân ca, ông còn sáng tác các hành khúc khác như Tiến về Hà Nội, Thăng Long hành khúc ca. Tham gia Việt Minh, Văn Cao sáng tác các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam,Không quân Việt Nam...

   Năm 1947, sau chiến thắng sông Lô, Văn Cao viết Trường ca Sông Lô, ca khúc ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc. Phạm Duy viết: "Đó là tác phẩm vĩ đại... chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương... Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc". Cũng theo ý kiến của Phạm Duy, Trường ca sông  phải là đỉnh cao nhất của nhạc kháng chiến nói riêng, của tân nhạc Việt Nam nói chung và Văn Cao là "cha đẻ" của hùng ca, trường ca Việt Nam.

   Sau năm 1954,  ngoại trừ Tiến quân ca, các ca khúc khác của Văn Cao không được trình diễn ở miền Bắc. Nhưng ở miền Nam, các ca sĩ hàng đầu của Sài gòn như Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thành vẫn trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao. Ca khúc Không quân Việt Nam được sử dụng làm bài hát chính thức của Không lực Việt Nam Cộng hòa.
 (theo Wikipedia)
……

Và chừng như toàn bộ vết thương cuộc đời Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà nhỏ xuống cây đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến những vết thương chợt mở miệng ca hát: “Mùa xuân đầu tiên” 

Chừng như nỗi niềm ngày 30 tháng tư năm 1975: “có một triệu người Việt Nam vui thì cũng có một triệu người Việt Nam buồn” (lời ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi bài hát: “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao? Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi nghe có một nửa nước vui thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn thua trận cũng trào nước mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng xé nhau, cười khóc mếu máo bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh đênh phiêu bạt thế, nức nở nghẹn ngào thế? 

Có lẽ, chính vì những điều trên mà kiệt tác “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao sau khi được báo “Sài Gòn giải phóng” in trước tết Bính Thìn: 01-01-1976, được hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy lần liền bị cấm suốt 24 năm (1976-2000). Sinh thời, Văn Cao không được nghe, được nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao này của mình được trình diễn. Sau khi ông mất (1995) 05 năm, “Mùa xuân đầu tiên” mới ra khỏi nhà tù kiểm duyệt của chế độ.

  Xin quý bạn đọc hãy nghe nhà thơ, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự ra đời của bài hát này:

“Sau khi bài "Tiến về Hà Nội" ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa... Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng...

   Tôi còn lưu giữ được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói. Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hoá” mất 30 năm thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc Việt Nam.

   Những ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên những ly rượu tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”.

   Văn Cao đã sáng tác xong ca khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn.”

 Trích theo Trần Mạnh Hảo trong “ Văn Cao, một thiên tài bị lưu đày”